ĐẠI VIỆT THẦN ĐẠO 01



MỞ ĐẦU





Người Việt có một nền văn hóa lâu đời ? Vâng !






Lâu đời là từ thửơ nào ? Và ta có một nền văn hóa lâu đời ấy , tại sao không thấy ai nhắc đến cốt lõi của nền văn hóa lâu đời này là triết lý , triết học và nhất là một nền tín ngưỡng chính thống ? có hay không ?






Nói đến một nền văn hóa , một tín ngưỡng chính thống mà thiếu căn cơ của một triết thuyết chẳng hóa ra người Việt chỉ có cái vỏ văn hóa bọc ngòai mà không có cái ruột bên trong . Tại sao thế ?.






Và ta cũng nên đặt ngược lại vấn đề quan trọng tối mật thiệt , tối thiết thân này . hỏi lại vấn đề ý niệm siêu hình và đạo học , Có hay không ? Hay chỉ đi vay mượn hết Đông sang tây đem về làm cái của mình ?






Thật ra câu chuyện chính thống triết và chính thống giáo vốn dĩ đã có tự nghìn xưa và sừng sững phát triển đến ngày nay vô cùng vĩ đại như lịch sử tiến hóa - sinh tồn của dân tộc Đại Việt , không phải là nhỏ .






Câu chuyện bắt đầu từ dòng giống Việt thời thượng cổ - dòng Bách Việt ở phía Nam sông Trường Giang đến Bắc Việt cùa ta ngày nay , theo giáo sư Trần :










A.BÁCH VIỆT






GỐC NGUỒN , VĂN HIẾN BÁCH VIỆT VÀ SÁCH BÁCH VIỆT HIỂN CHÍ






Theo cuốn sách sọan từ thời nhà Minh , nhiều danh nhân ta tưởng người Hoa thật ra gốc Bách Việt : Thái Luận phát minh ra giấy viết , Âu Dã Tử rèn kiếm Thái A , Khuất Nguyên nhà thơ làm '' Ly Tao '' , đệ nhị tài tử của Trung Hoa ...






Nhân lọai dù sống ở bất cứ không gian và thời gian nào , cũng đều có chung yếu tính làm người ; cao cả vượt trên muôn lòai . Hòan cảnh sống với những điều kiện khác biệt đã khiến cho phong tục tập quán của mỗi xả hội có những nét riêng tư , độc lập , nhưng tựu trung , cốt lõi của đạo đức nhân bản vẫn đồng nhất với nền tảng là đức nhân . Đi vào đáy cùng giáo lý của những tôn giáo chính đáng sẽ chỉ còn tấm yêu sáng dục .






Trong cuộc đời thực tế , gian lao đối đầu với những khó khăn , xử trí dụng mưu nhiều khi thái quá , uể ỏai , lu mờ dần đức nhân , tình người rạn nứt , đưa đến những tranh đua , đố kỵ , đến cả chiến đấu hận thù . Người bi quan nhìn dòng lịch sử nhân lọai như lịch sử chiến tranh nối tiếp không thôi , qua từng thế hệ . Kẻ đi xâm chiếm , gây việc binh đao , dù có đeo mặt nạ , dười hình thức giá trị nào , thực chất chỉ là tranh quyền cướp lợi , tồi tàn , đê hạ.


Phương Đông , học thuyết Đại Đồng nhân bản lấy nhân làm nền tảng , lấy Nghĩa làm chất liệu , lấy lễ làm trật tự , lấy Trí làm ánh sang soi đường , lấy Tín làm quy ước xử thế , nhằm đưa nhân lọai đến một xã hội hài hòa lẽ sống tình người , không đấu tranh sân hận , không phân ly giai cấp , không giành giật lợi quyền .Học thuyết này được đề xướng hơn 2500 năm nay , xã hội Đại đồng vẫn chưa một lần thành tựu .


Dọc hơn 2500 năm ấy , nhân lọai có tiến hóa về văn minh vật chất nhưng tuyệt nhiên không một bước tiến hóa về văn hóa nhân sinh . Nhân lọai nếu không níu vào cái phao đạo đức hoặc tôn giáo đã có từ thời xưa xa thẳm để tâm hồn được sống thì hẳn đã chết đuối trong bể vật chất phi nhân .


Các thế lực quản trị Trung Hoa , qua nhiều triều đại , đã nhân danh học thuyết Đại Đồng nhân bản , gian ngoan với mặt nạ ‘’ tình bốn bể là nhà ‘’ , ‘’nghĩa bốn bể là an hem ‘’ , dung bạo lực đem ách đô hộ đè lên các nước nhược tiểu , dân các nước ấy phần bị tàn sát , phần bị đồng hóa để cho Trung Hoa mở rộng biên cương . Bách Việt cũng không tránh khỏi dòng cuồng lưu tham tàn ấy . Cho đến bây giờ , dân vùng Mân Việt , Âu Việt , tây Việt , tuy có biết tổ tiên xa xưa thuộc dòng Bách Việt , nhưng than phận đã lẩn chìm vào Tàu . nay tuy có những nhóm nhỏ nhoi , được thành lập Hội Bách Việt Dân Tộc Sử Nghiên Cứu Hội , tác phẩm giá trị ấn hành ít ỏi nghèo nàn .Chúng tôi được thân bằng vì tình tri ngộ gửi tặng hai bộ : Bách Việt Dân Tộc Sử Luận Tập và Bách Việt Dân Tộc Sử , Mỗi bộ được Trung Quốc Xã Hội Khoa Học Xuất Bản Xã in 1.000 cuốn . Con số 1.000 cuốn sách phát hành trong một nước có trên 1 tỷ người , bằng 1/3 dân số trên thế giới , khác gì đem một thìa muối đổ xuống biển khơi ! Công trình nghiên cứu của Hội này chỉ như một cung tơ nức nghẹn giữa muôn ngàn tiếng trống . Chỉ duy Lạc Việt tức Việt Văn Lang vượt thắng những ba đào lịch sử , tồn tại làm một nước độc lập , giữ được nguyên vẹn dân tộc tính như Nguyễn Trãi đã viết trong Bình Ngô Đại Cáo ‘’ Như nước ta từ trước , vốn xưng văn hiến đã lâu . Sơn hà cương vực đã chia , phong tục Bắc nam cũng khác ‘’ ( Bắc chỉ Trung Hoa , Nam chỉ Việt Nam )


BÁCH VIỆT CHUNG MỘT GỐC NGUỒN


Chữ Việt có hai cách viết bằng chữ Nho : một thuộc bộ tẩu và một thuộc bộ mễ.


Chữ Việt bộ tẩu biểu tượng cho ý nghĩa cao quý dấn thân , khai phá những nơi còn âm u tăm tối bằng ánh sáng văn hóa tình người , dựng nên xã hội định cư ấm cúng , với nền văn minh tồn trữ , káhc biệt với nền văn minh du mục của người phương Bắc.


Chữ Việt bộ mễ biểu tượng ý nghĩ định cư khai khẩn đất hoang , be bờ dân nước , làm thành một nền văn minh nông nghiệp , có tính cách tồn trữ , cao cả vượt trên cả các bộ tộc còn lang thang đây đó mưu việc sinh nhai .


Vì chữ Việt có hai cách viết khác nhau , đã có người lầm tưởng Việt bộ tẩu là Việt Nam ta , Việt bộ mễ là dân Việt ở Vùng Quảng Tây , Quảng Đông , Phúc Kiến , Triết Giang …


Theo Bách Việt Tiên Hiền Chí , một bộ Lĩnh nam Di Thư quý báu được sử quán Nhà Minh khắc in trọn bộ , góp vào Nghệ Văn Chí , làm sử liệu chính xác , các nhà viết sử nương tựa vào để trích dẫn hoặc dẫn chứng Việt bộ tẩu và Việt bộ mễ là một .


Theo Khang Hy tự điển , bộ tự điển nghiêm túc được văn học giới Trung Hoa tin tưởng , Việt bộ Tẩu và Việt bộ mễ là một . Theo Từ Hải , bộ bách khoa từ điển của Trung hoa , Việt bộ tẩu và Việt bộ mễ là một , vậy phân biệt hai cách việt của chữ Việt và gán cho mỗi cách viết mang một ý nghĩa khác nhau chhỉ là tưởng tượng mơ hồ của người hay chữ lỏng , nếu không phải là chủ trương phân ly Bách Việt của kẻ có ý đồ đen tối .


Về thủy tổ bách việt truyền khẩu cũng như sử sách Việt Nam đều đồng nhất . cáhu ba đời của vua Thần Nông là Đế Minh đi tuần du pgương Nam đế Ngũ Lĩnh , gặp nàng vụ tiên ( nàng tiên đẹp , cần mẫn , nết na ) lấy nhau sinh ra Lộc Tục . Lộc tục có thánh đức , Đế Minh muốn truyền ngôi . Lộc tục cũng khiêm không dám nhận . Đế Minh bèn truyền ngôi cho con trưởng là Đế Lai làm vua Phương Bắc , phong Lộc tục làm vua Phương Nam . Lộc Tục xưng là Kinh Dương Vương ( vua châu Kinh và châu Dương ) đặt quốc hiệu là Xích Quỷ .


Nước Xích Qủy bắc giáp Động đình Hồ , Nam giáp nước Hồ Tôn , tây giáp Ba Thục , đông giáp bể Nam Hải . Vua lên ngôi năm Nhâm Tuất ( 2879 trước kỷ nguyên Tây Lịch ).


Kinh Dương Vương kết hôn với nàng Long Nữ , con gái vua xứ Động đình sinh ra Sùng Lãm .


Sùng Lãm nối ngôi xưng Lạc Long Quân , kết hôn cùng nàng Âu Cơ con gái vua Đế Lai , sinh được trăm trứng , nở thành trăm con trai . Một hôm Lạc Long Quân bảo bà Âu Cơ : ''Ta là dòng dõi rồng , nàng là dòng dõi tiên , ăn ở với nhau lâu không được . Nay được trăm con trai , nàng hãy dẫn 50 con lên núi , ta dẫn 50 con xuống miền Nam Hải . Dù ở đâu cũng không được bỏ nhau ''.


Con trưởng được dựng lên làm vua , đổi quốc hiệu là Văn Lang , xưng là Hùng Vương , truyền được 18 đời , đến năm Quý Mão ( 258 TCN ) thì mất về nhà Thục .


Một trăm con trai của Lạc Long quân và bà Âu Cơ là tổ của Bách Việt .


Đọan sử trên hàm chứa nhiều ẩn dụ mang sắc thái huyền thọai . Đó là điều thường gặp nơi cổ sử của các dân tộc Á cũng như Âu . Lý giải theo nghĩa của ngôn từ này sẽ đưa đến nhiều kết luận khác biệt . Trong phạm vi bài viết này , chúng tôi chỉ giải thích nghĩa hai quốc hiệu Xích Qủy và Văn Lang .


Xích Quỷ : Xích là màu đỏ , màu của lửa , cũng là màu được dùng để chỉ phương Nam biểu tượng cho lòng nhân ấm áp tình người . Thành ngữ xưa có câu : '' NAm phương hỏa đức thịnh '' , nghĩa đen là phương Nam thịnh về đức lửa . Nghãi bóng là nam phương giàu lòng nhân . Thần sao Nam tào được giữ gìn sổ sinh ( sổ ghi về sự sống , tuổi thọ của mọi người trên mặt đất ) là một vị văn quan mặt đỏ .


Đọan Trung Dung sau đây nói minh bạch về lòng nhân của phương Nam : Tử lộ vấn cường . Tử viết '' Nam phương chi cường dư? Bắc phương chi cường dư ? Ức nhi cường dư ? Khoan dung dĩ giáo , bất báo vô đạo , nam phương chi cường dã , quân tử cư chi . Nhậm kim cách , tử nhi bất yếm , Bắc phương chi cường dã , nhi cường dã cư chi '' Nghãi là : Thầy Tử Lộ hỏi về sức mạnh . Khổng Tử nói : '' Sức mạnh của phương Nam ư ? Đem lòng rộng lượng hiện hòa để giáo hóa người , dẫu đối với kẻ vô đạo cũng không báo thù báo óan , đó là sức mạnh của phương Nam . Nừoơi quân tử ở đấy , mặc giáp cầm gươm , xông pha đánh giết , đến chết cũng không ngán , đó là sức mạnh của phương Bắc , Người cường bạo ở đấy ''


Qủy : Thiên lễ vận nơi Lễ ký có ghi câu '' Trình bày dâng lên qủy thần '' , Lại chú giải : '' qủy al2 nơi linh hồn tinh anh trở về ''


Thiên Đoan Thiên nơi sách Liệt tử có viết : '' các tinh thần lìa hình thể đều trở về nơi chân thực nên gọi là quỷ , Nơi qủy trở về là nơi cư ngụ chân thật của mình ''.


Qủy còn là tên vị sao sắc trắng trong nhị thập bàt tú .


Như vậy , Xích Quỷ có nghĩa là '' Khi sống , lấy đức nhân mà hành xử việc đời . Khi chết trở về nơi chân thực , vĩnh cửu '' . Đồng thời cũng hàm chủ ý nghĩa về địa dư : Nườc ở phương Na , sao Qủy xác định địa giới .


Văn Lang : Chữ Văn có nhiề ý nghãi phức tạp và khác biệt , Chúng tôi chọn nghĩa chữ '' Văn '' nơi sách Sử Ký và sách Luận Ngữ .


Theo '' Sử ký thụy pháp '' ( chương viết về phép đặt tên thụy , tức tên mà người sống xét phẩm cách của người chết mà đặt cho ) có ghi : '' Kinh vĩ thiên địa viết văn . Đạo đức bác văn viết văn . từ huệ ái dân viết văn . Mẫn dân huệ lễ viết văn . Nghĩa là : '' Dọc ngang trời đất gọi là văn . Đạo đức , nghe rộng gọi là văn . Chăm học , ưa hỏi gọi là văn . Hiền từ , thương xót yêu dân gọi là văn . Ban thưởng tước vị cho d6an gọi là văn '' .


Sách Luận Ngữ , chương Tử Hân có ghi lời Khổng tử khi Ngài bị người Ấp Khuông , một ấp thuộc nước Vệ đời Xuân Thu vây khốn vì ngộ nhận Ngài là ác nhân Dương Hổ : '' Văn vương ký một , văn bất tại tư hồ ? Thiên chi tương táng tư văn giã , hậu tử giả , bất đắc dư ư tư văn giã . Thiên chi vị táng tư văn giã . Khuông nhân kỳ như dư hà ? '' Nghĩa là : '' Văn vương đã chết , '' văn '' không do ta gánh vác hay sao ? Nếu trời muốn chôn vùi '' tư văn '' thì kẻ chết sau Văn vương là ta không được tham dự vào ''tư văn'' . Nếu trời chưa muốn chôn vùi '' tư văn'' thì người ấp Khuông làm gì được ta ? '' Tư văn theo Nho học là Đạo Trời . Chu Hy , học giả đời Tống chú thích : '' Đạo chi hiển giả vị chi văn '' nghĩa là đạo trời sáng tỏ gọi là văn '' .


Lang : chữ ''Lang '' gồm chữ '' lương '' là lương thiện bên bộ '' ấp '' là vùng đất . Do vậy , lang là vùng đất của người lương thệin hay đất nước của người lương thiện .


Văn Lang , quốc hiệu thời các Vua Hùng , hàm chứa ý nghãi : Vua mở tấm lòng giữa vùng trời đất , là bậc đạo đức cao nghe nhiều biết rộng . Đối với mình thì cố gắng học hỏi , mở mang trí thức . đối với dân thì hiền từ , yêu thương và biết giữ lễ với dân , lại có lòng xót xa nỗi vất vả mà nừoơi dân gánh chịu nân sáng sôốt ban thưởng cho người có công . Do vây , đã tạo nên đất nước trong đó có người dân sống đời lương thiện .


Sử là bộ môn khoa học nhân văn , đòi hỏi phải trung thực khách quan , ghi chép sử kiện của từng giai đọan một cách đầy đủ . Óai ăm , khi viết sử nước nhà , không ai có thể gạt bỏ hòan tòan tình cảm yêu ghét . càng óai ăm hơn , sử kiện lịch sử lại không thể tái thiết để thể nghiệm kiểm chứng . Hậu thế đọc sử không nhiều thì ít , có những điều thắc mắc hòai nghi . Do vậy , sử luận cần phải có . Nhưng , những bộ óc luận bàn lịch sử cũng không thể tuyệt đối khách quan . Và , cái vòng '' lẩn quẩn '' không có điểm ngừng ấy hẳn nhiên làm nảy sinh những quan điểm , những kết luận dị biệt , đôi khi mâu thuẫn .


Nơi đây , chúng tôi đặt nặng về sử kiện hơn là sử luận , nhằm mục đích đóng góp cùng độc giả những tài liệu quý giá có liên quan hệ trọng đến gốc nguồn xa xưa của dân tộc Việt . Đặc biệt , những tài liệu này được lưu trữ tại Trung Hoa , một nước truyền kiếp tìm cách thôn tính , đồng hóa dân nước ta . Mong độc giả đối chiếu và suy gẫm .


Sọan giả Âu Đại Nhậm , người huyện Thuận Đức , nay thuộc địa phận tỉnh quảng đông , được sử quán nhà Minh xác nhận là chính xác , in tòan bộ bản thảo vào Nghệ văn chí , dùng làm tài liệu cho các nhà viết sử tra cứu , trích dẫn . Âu Đại Nhậm đã viết lời tựa như sau :


'' Việt (bộ mễ ) và Việt ( bộ tẩu ) là một vậy , từ Ngũ Lĩnh đến điển , đều là biên giới phương nam của nước Việt . Vua Vũ đi khắp thiên hạ , nhận định địa lý hình thể , địa lý nhân văn rồi trở về nước Việt , họp chư hầu , bàn định kế họach hưng quân an dân . thiếu Khang ( vua thứ VI nhà Hạ ) phong cho con thứ là Vô Dư giữ đất Cối Kê , lo việc phụng thờ tế tự . Vô Dư ở Cối kê giữ tục truyền thống : Xăm mình , cắt tóc ngắn , phát cỏ khẩn hoang , định cư lập ấp , sống theo văn hóa nông nghiệp .


Hơn hai mươi đời sau Vô Dư , đến con của Dõan Thường là Câu Tiễn diệt Ngô mà xưng vương , đóng đô ở Lang Gia , uy hùng xây dựng nước nông nghiệp vậy .


Cháu sáu đời của Câu tiễn là Vô Cương cất quân đánh Sở , bị vua Sở là Hùng thích đáng bại . Vô Cương bỏ miền Đông Gia , đi đến ở miền Đông Vũ . Nước Việt tan . Các con của Vô Cương định cư ở duyên hải Giang Nam , chia nhau kẻ làm quân trưởng , người làm vương , gọi là Bách Việt , tất cả đều thần phục Sở . Châu Dương từ ấy bị phân chia . Cối kê lấy các sao phương Nam là sao Thuần , sao Vĩ để định cương giới . Đất Cối kê thuộc vào Nam Hải .


Khi Tần diệt sở , Vương Tiễn cai trị Dương Việt , chia thành ba quận : Nam hải , Quế Lâm và Tượng Quận . cháu Úy Đà thần phục nhà Hán . Họ Triệu cai trị cả ba quận ấy , lại kiêm thêm các quận Hợp Phố , Thương Ngô , Uất Lâm , Giao Chỉ , Cửu Chân , Chu Nhai , tổng cộng là chính quận vậy . nay vùng Nam Việt , bắc giáp Cô Tư , kiêm cả Cối Kê là Phù Việt . Phía Đông , Vô Chư đóng đô ở Đông Giã , từ Đông Giã đến Chương Tuyền là Mân Việt . Vùng Đông Hải .Vương Dao đóng đô ở Vĩnh Gia là Âu Việt . Lãnh thổ xưa của Dịch Vu Tống , dọc theo sông Tương , sông Ly về phía Nam là Tây Việt . Từ Tang Ca xuôi xuống phái Tây , gồm cả các đất Ưng , Dung , Tuy, Kiến là Lạc Việt .


Người Hán bảo việt gần biển , có nhiều sừng tê , đồi mồi , ngọc trai , bạc đồng , trái cây , vải vóc . Ôi , Vùng đất có những thứ quý báu ấy , há chẳng phải do dương đức thịnh hay sao ? Dương đức thịnh đã chung đúc nẹn nhân văn , áo mũ , lễ nhạc , chẳng thua gì thanh giáo Đường , Ngu . Xem vậy , nào phải Nam giao buổi ban sơ là tà đâu ? Ta được biết Thái Sử công có viết :'' Việt tuy bị gọi là man di , nhưng tiên khởi đã có đại công đức với muôn dân vậy '' ( Vua Vũ nhà Hạ trị nạn Hồng thủy ) .


Nơi sách Xuân Thu có ghi chép việt Việt Câu Tiễn từ Việt tiến vào Ngô . Man di mà làm được việc ấy ư ? Thủa ấy Việt đã có nền văn hiến cao , cho nên người Việt biết bền gan sống cảnh thân khổ , sức mệt , ơới mưu sâu thần kế , rửa sạch cái nhục ngọai nhân trói buộc , kiểm sóat đến cả ăn nằm , hiệu lệnh đến cả Trung Quốc phải tuân theo răm rắp , vậy mà vẫn khiêm tốn thờ nhà Chu , giữ trọn điều trung điều hiếu .


Từ Tần , Hán trở về sau , Việt có họ Sô với Vô Chư , với Diêu , họ Triệu với Đà với Quang , đều là những bậc sự nghiệp lẫy lừng , kẻ tả hữu là những người Việt tài ba xuất chúng không ít . Kìa xem họ Lưu với Đông Tây hai kinh , bầy tôi công nghiệp lớn lao , văn chương l;ỗi lạc , kẻ bắc người nam nước Việt , bảy tám ngàn dặm xa xôi , đến từ Bắc hải , Giao Châu càng nhiều lắm vậy ...''


TỪ HẢI , BỘ BÁCH KHOA CỦA TRUNG HOA


Về Bách Việt có ghi :


'' cũng viết là , tên của chủng tộc . Theo sách Thông Khảo Dư Địa khảo , chương Cổ Nam Việt viết : Đương thời Đường Ngu , tam đại , từ Ngũ Lĩnh về phía Nam là nước của người man di , ấy là đất của Bách Việt '' Sách này lại ghi chú : '' Từ Giao Chỉ đến Cối Kê bảy tám ngàn dặm , chủng tộc Bách Việt sống lẫn với các sắc dân khác , nhưng luôn luôn giữ được cá tính của chủng tộc ''






Tứ khổ Tòan Thư, mục bách việt Tiên Hiền Chí đề yếu viết :


‘’ Việt là nước lớn ở Phương nam , cháu sáu đời của Câu Tiễn là Vô Chưa bị Sở đánh bại , các con phân tán , đến ở duyên hải . Những người nổi danh là Vô Cương cai trị một dãi đất từ Đông Việt đến Chương Tuyền . Đóng đô ở Đông Giã , dựng nên Mân Việt . Đông Hải vương tên Diêu đóng đô ở Vĩnh Gia , dựng nên nước Âu Việt . Từ song Tương , song Ly về phía nam là nước Tây Việt , Từ Tang Ca xuống phía tây , các đất Ung , Ung ( Bách Việt Tiên Hiền chí . Việt Sử Lược ghi là đất Dung ) , Tuy , Kiến là Lạc Việt , gọi chung là Bách Việt ‘’.


Cũng theo Từ Hải , Hán Thư có ghi : ‘’ Người lạc Việt cha và con trai tắm cùng sông , cùng tập cho nhau uống nước bằng mũi ‘’.


Về chữ Chỉ trong danh từ kép Giao Chỉ :


Khang Hy Từ Điển , Từ Hải ấn hành từ 1947 về trước , Hán Việt Từ Điển của Thiều Chửu đều giảng nghĩa là cái chân . Riêng Hán Việt Từ Điển của Thiều Chửu và Từ Hải ấn hành sau 1950 có chú thêm : ‘’ Sau này cũng chỉ gọi là cái ngón chân ‘’ .


Về Giao Chỉ , Từ Hải ghi ; ‘’ Theo sách Lễ Vương Chế , Người Man ở Phương Nam , xăm trán ; Giao Chỉ lại giảng rõ thêm : Chỉ là chân vậy . Người Nam khi nằm đầu hướng vào trong , chân hướng ra ngòai , hai chân tréo lên nhau nên gọi là Giao Chỉ ‘’


Qua phần trình bày trên , nhận thấy những sự kiện tồn lưu trong truyền khẩu cũng như sử sách của ta , đối chiếu với những sự kiện được tồn lưu ở Tàu , ở thời khởi nguyên dựng nứơc , tương đồng về địa giới và phong hóa . Điểm khác biệt duy nhất : theo sử liệu ta , tổ nguyên thủy là kinh Dương Vương , trăm con trai của Lạc long quân là tổ Bách Việt .


Theo sử liệu còn lưu trữ bên Tàu , Vua Vũ trị nạn hồng thủy là tổ nguyên thủy , các con của Vô Chư ( cháu 6 đời của Câu Tiễn ) là tổ của Bách Việt .


Tư kiến cá nhân người biên sọan bài này , không quyết đón khẳng định , chỉ suy đóan có lẽ : 50 con trai theo lạc Long quân xuống khai phá miền duyên hải , hậu duệ lâu ngày sống xa đất tổ Kinh Dương , nên về tộc phả gốc nguồn chỉ còn biết đến Vua Vũ ( vua Vũ lên ngôi năm 2205 trước kỷ nguyên Tây Lịch )


Theo Đại việt Sử lược do sử gia ẩn danh đời trần biên sọan , bị Nhà Minh tịch thu đem về Tàu , tang trữ vào kho sử thì :


‘’ Việt Vương câu tiễn nhiều lần sai sứ sang dụ , vua Hùng Vương cự tuyệt không nghe theo ‘’ ( Bộ Đại việt Sử lược này bị Nhà Minh tịch thu đem về Tàu , tàng trữ trong kho sử của Tứ Khố Tòan thư – bồn kho sách của triều đình gồm Kinh , Sử , Tử tập – Sau vua Càn Long nhà Thanh mở Tứ Khố , cho ấn hành . Nhờ Vậy người Việt Nam mới có pho sách này của tiền nhân . Chúng tôi có một bản ).


Văn hiến chủng tộc Bách việt , nơi Việt Văn lang đã hiển nhiên đối với chúng ta . Các chi Việt khác xa xôi c1ch trở , tài liệu chuyển đạt đến ta thật khó khăn nên hiếm hoi . Thêm vào đó , người Hoa tự xưng là Trung quốc , vua là con trời , bao nhiêu người sống dưới gầm trời đều là con dân của ‘’ Thiên tử ‘’


Các hiền nhân lỗi lạc của Bách Việt họ đều nhận là người của họ .


Dưới đây chúng tôi trích một vài hiền tài lỗi lạc của Bách việt để biểu trưng phần nào cho nền văn hiến Việt , một nền văn hiến do chính người việt tạo thành , không vay mượn của bất cứ ngọai tộc nào , không nhờ cậy bất cứ ngạoi tộc nào dạy dỗ .


Khuất Nguyên : Hiền triết thi nhân , kiêm cả tài kinh bang tế thế , học rộng nhớ lâu , tấhy rõ lẽ trị lọan . SỬ ký Tư Mã Thiên , chương Khuất Nguyên liệt truyện có viết : ‘’ Ông vào cung thì cùng vua bàn tính việc nước , ban bố các mệnh lệnh , ra thì tiếp đãi tân káhch , ứng đối chư hầu . Nhà vua ( Sở Hòai Vương ) rất tin dùng ‘’ . Sau đại phu Thượng quan vì đố kỵ mà gièm pha . Vua Sở bỏ rơi khuất Nguyên . Khuất Nguyên buồn giận mà làm ra Ly tao . Về Ly tao , Tư Mã thiên viết : ‘’ Ly Tao là lòng buồn trong chia ly . Trời là khởi thủy của lòai người . Cha mẹ là gốc của con người . Người ta gặp lúc khốn cùng thì quay về gốc . Cho nên hễ khó nhọc , mõi mệt , ốm đau không ai không kêu Trời ! Khi đau xót , thương cảm , không ai không kêu cha mẹ . Khuất Bình theo đạo ngay , đi đường thẳng , dốc hết lòng trung , đưa hết trí khôn ra thờ vua , nhưng lại bị kẻ gièm pha ly gián có thể gọi là ở vào cảnh khốn cùng vậy . Mình tin mà bị ngờ vực , mình trung mà bị chỉ trích làm sao khỏi cảm than . Khuất Bình viết Ly tao là do óan than mà ra vậy ! Thơ Quốc Phong mê sắc mà không dâm , Thơ Tiểu Nhã óan trách mà không lọan . Như Ly tao là gồm cả hai …:’’ ( theo bản dịch của Phan Ngọc ).


Tư Mã Thiên không viết về quê quán của Khuất Nguyên , Từ Hải , bản đầu tiên ấn hành vào tháng 3 năm 1947 , tái bãn tháng 2 năm 2003 , về quê quán ông có ghi : ‘’ Theo Hậu Hán thư , Kỷ Hòa Đế , mục ‘’ Tỷ Quy sơn băng ‘’ ( núi Tử Quy đổ ) có ghi chú ‘’ Tỷ Quy huyện thuộc Nam quận , nay là Quy Châu . Viên Tùng nói : Khuất Nguyên là người huyện này , đã bị sóng cuốn trôi đi . Khi chị đến tìm hốt nhiên thấy xác ông trôi ngược trở về . Nhân việc ấy , lấy chữ Tỷ ( nghĩa là chị ) chắp với chữ Quy về ) mà đặt tên huyện ấy ‘’.


Theo Từ Hải , Quy Châu là phủ Nghi Xương tỉnh Hồ Bắc .


Cũng theo Từ Hài ( Bộ Bách Khoa được học giới Trung Hoa tin cậy ) Châu Kinh cổ xưa , nay là địa giới tòan tỉnh Hồ Nam , Hồ Bắc , cộng thêm đông nam bộ tỉnh Tứ Xuyên , đông bắc tỉnh Quý Châu , Bắc bộ tỉnh Quảng đông , huyện Liên Sơn và tòan huyện Quảng tây ( thuộc tỉnh Quảng tây ) .


Châu Dương ngày nay là các tỉnh Giang Tô , An Huy , Giang Tây , triết Giang , Phúc kiến .


Khuất Nguyên người huyện Tỷ Quy ở Hồ Bắc , Tỉnh Hồ Bắc thuộc Châu Kinh , đất gốc Bách Việt . Như vậy Khuất Nguyên là người Bách Việt .


Những bậc hiền giả tiếp theo đây , trích dịch từ Bách Việt Tiên Hiền chí , do Âu Đại nhậm , người huyện Thuận Đức , tự là Trịnh Bá biên sọan năm Gia tĩnh thứ 33 .


Âu Dã Tử : Người rèn kiếm bậc nhất , tức người đưa nền văn minh kim lọai của Việt thời bấy giờ lên hàng đầu , vượt trên các nước chư hầu nhà Chu .


Âu Dã Tử người Việt cùng Can Tương ngừơi Ngô học chung một thầy . Cả hai rèn kiếm rất tài . Vua Dõan Thường nước Việt khiến rèn 5 thanh bảo kiếm bằng tinh anh của ngũ kim , hấp thụ tinh khí thái dương . Tuốt kiếm có thần , đeo kiếm có uy , chém đứt trở vật , đâm chết đối phương .


Vua Sở bèn vời Phong Hổ Tử đến mà hỏi :


- Quả nhân nghe Ngô có Can Tương , Việt có âu dã Tử , hai người ấy rèn kiếm bậc nhất trên đời ( Thử nhi nhân Giáp thế nhi sinh . Giáp : bậc nhất , số 1 ) Qủa nhân nguyên lòng bái kính . Nay nhờ vua Ngô đến nói giùm , xin làm bảo kiếm được chăng ?


Phong Hồ Tử đáp :


- Muôn tây , được lắm . Thần đã từng thấy Âu dã Tử cùng với Can Tương , hớn hở lên ngọn núi cao , lợp túp lều tranh , đào sắt rèn ba bảo kiếm : một là Long Uyên , hai là Thái A , ba là Công Bố vậy .


Nghe Phong Hồ Tử minh bạch tấu trình , vua Sở cả mừng mà nói tiếp rằng :


- Ba thanh kiếm ấy khí tượng thế nào ? Quả nhân xin được lắng nghe .


Phong Hồ Tử đáp :


- Nhìn vào lưỡi kiếm Long Uyên , cảm như đến bờ vực thẳm , lên đỉnh núi cao . Nhìn vào lưỡi kiếm Thái A lấp lóang rờn rợn như sóng nước gợn trôi . Nhìn vào văn kiếm Công Bố , từ mũi đến cán đẹp như ngọc báu mà không thể đeo , miên man như nước biếc , sóng lớp lăn tăn triền miên bất tuyệt .


Nước Tấn , ước Trịnh , nghe danh kiếm báu , muốn mà không đựợc , bèn cùng nhau xuất quân , vây Sở ba năm liền . Vua Sở đeo kiếm Thái A , đi lên trên thành , tuốt kiếm mà chỉ huy ba quân , cả thắng , đánh phá quân địch tan tành , máu chảy ngàn dặm , tâhy ngã đầy đồng . mái đầu vua Tấn , vua Trịnh tóc đổi màu bạc trắng phau phau .


Vua Sở hỏi:


- Uy của kiếm chăng ? Sức của ta chăng ?


Phong Hồ Tử đáp :


- Uy của kiếm , kiếm nhờ thần khí đại vương mà phát uy vậy . Thời Hiên Viên , Thần Nông , Xích Tư lấy đá làm binh khí . Thời Hòang đế lấy ngọc làm binh khí . Mỗi thời đều có cách sử dụng thích ứng . Thời nay sắt thép làm thần binh vậy . Đại vương là bậc thánh đức vậy .


Vua Sở đáp :


- Chỉ vì người Sở biết nghe theo mệnh lệnh của ta .


( Tham khảo và tu chỉnh : căn cứ vào c1c sách Ngô việt Xuân Thu , Việt TuyếtThư)






Bao Hàm.: Người Bách Việt làm thầy vua nhà Hán .


Bao Hàm tự là Tử Lương , người đất Khúc A ở quận Cối kê , thiếu thời theo nghệip sách đèn ở Trường An , thờ bác sỹ Tế Quân làm thầy , chăm lo học tập Lỗ Thi và luận Ngữ .


Năm vua quang Vũ nhà Đông Hán mới lên ngôi , thái thú Hòang Đăng được gặp Hàn ở nhà viên quan Tào Sử cử làm Hiếu liêm được giữ chức quan Lang trung .


Khỏang giữa niên hiệu Kiến vũ , vào cung dạy Hòang thái tử học sách Luận Ngữ , vua phong làm Giám Nghị Đại phu , hàm thị trung hữu trung lang tướng .


Năm Vĩnh Bình thứ năm , Minh tế nhà đông Hán phong làm Đại Hồng lô . Mỗi khi Hàm đến yết kiến , vua đều đỡ dậy , mời ngồi lên ghế . về kinh truyện , có điều gì vua chưa thấu đáo , không dám vời đến mà hỏi , chỉ dám khiến viên tiểu hòang môn đến tận nhà Hàm mà xin chỉ dẫn .


Vua coi Hàm là bậc ân sư , tấhy thầy sống quá thanh bần , thường abn châu ngọc , vải lụa và thóc gạo . Nhận được lộc vua ban , Hàm đem chia hết cho các học trò nghèo .


Khi Hàm bệnh nặng , vua thân đến thăm . hàm chết tại chức quan . Con là Phúc , được phong làm lang trung , cũng lấy sách Luận Ngữ dạy cho làm Hàm Đế .


( Tham khảo và tu chỉnh ; căn cứ vào Viên Tung , Tạ Thừa , Hậu Hán Thư ).


Thái Luân : Người đầu tiên làm ra giấy để viết .


Thái Luân tự là Kính Trọng , người ở quế Dương , cuối niên hiệu Vĩnh bình , làm cấp sự quan dịch , mốt chức quan nhỏ , chờ chực khi có việc nhà vua sai khiến . Đến niên hiệu Kiến Sơ làm tiểu hòang môn , coi việc canh gác cửa cho nhà vua . Hòa đế lên ngôi , được thăng làm Trung thường thị , ra vào trong tiều , hầu cận bên vua để bảo vệ , giúp đỡ , góp ý bàn luận mưu tính .


Luân học rộng , hiểu biết cao sâu , tính tình đôn hậu , việc làm thận trọng , thành thật tận tâm . Những khi phạm điều sai lầm , nghiêm chỉnh tự mình sửa đổi , cho đến trở nên chính đáng . Mỗi khi tắm gội , gọi đóng cửa cài then lại , tạ từ không tiếp khách . Tắm xong , ra ngòai đồng nội phơi nắng hóng gió .


Sau , được thăng làm Thượng phương lệnh . Năm Vĩnh Nguyên thứ IX , được giao trọng trách coi việc rèn bí kiếm cùng các lọai khí giới khác . Bí kiếm là lọai kiếm báu , rất sắc bén , được coi là lọai kiếm thần của nhà Hán . Cách rèn khí giới của Luân , không thứ nào không bền và sắc , làm thành phương pháp cho đời sau noi theo .


Luân lại còn là người đầu tiên làm ra giấy để viết . Từ xưa chưa có giấy , viết chữ lên thẻ tre hoặc lụa mềm trắng . Lụa đắt tiền , thẻ tre nặng , cả hai đều không tiện dụng . Luân bèn nghĩ ra cách lấy vỏ cây , dây gai , vải nát , lưới cá rách mà chế ra giấy . Như vậy vừa đỡ tốn kém vừa nhẹ , tiện dùng cho tất cả mọi hạng ngừoi giàu cũng như nghèo . Thiên hạ ai cũng cảm phục , gọi Luân là thái hầu Chỉ , nghĩa là tước Hầu họ Thái làm ra giấy để viết chữ .


Năm Nguyên Sơ thứ nhất , Đặng thái ậhu thấy Luân làm túc vệ đã lâu , bèn phong làm Long đình hầu , được ăn lộc một ấp 500 nhà . sau , làm thái bộc ở cung Trường Lạc . Thái bộc là một chức quan coi việc xe ngựa cho nhà vua


Bấy giờ vua tấhy lời văn trong kinh , truyện nhiều câu không chính đáng , bèn tuyển chọn những ngừơi giỏi về Nho học , cùng bác sỹ , sử quan , đến đài Đông quán , họp nhau đối chiếu mà sửa lại kinh truyện cho đúng với pháp lệnh nhà Hán . luân làm thái bộc đã bốn năm , được vua chọn làm giám sát điều hành , coi sóc việc hiệu đính kinh truyện ấy .


( Tham khảo và tu chỉnh : Đông Quán Hán Ký , Hậu Hán Thư , Thủy Kinh Chú )


Vương Siêu : Triết gia , Vương Siêu tụ là Trọng nhiệm , người làng Thượng Ngu ở Cối Kê , thờ Ban Bu làm thầy , học rộng biết sâu , không câu nệ vào chương cú . Nhà nghèo , không có sách , Sung thường tìm đến tiệm sách ở Lạc Dương đọc nhờ , nhìn qua một lần là nhớ trọn bộ . Có chiếu với ra làm quan , vì bệnh không đến nhậm chức , ở nhà viết sách Luận Hành gồm 85 thiên , hơn 20 vạn chữ , phân chia vật thể thành những lọai giống và khác nhau . Ngừơi đương thời hiềm nghi sách ấy không phải là chính phái .


Cuối thời Đông Hán , Thái Ung vào đất Ngô , được sách Luận hành ấy trong trướng , say mê đọc , dùng làm tài liệu để biện bác . sau lại có Vương lăng , coi ở đất Cối kê , nghiền ngẫm sách ấy mà được coi là bậc kỳ tài xuất chúng .


Năm Sung gần 70 tuổi , ý chí và thể lực hao mòn suy yếu , viết Dưỡng tính Thư gồm 16 thiên , chủ trương thuyết hạn chế dục vọng , di dưỡng tinh thần . Ông qua đời trong niên hiệu Vĩnh Nguyên .


( Tham khảo và tu chỉnh : căn cứ vào các sách : Viên Tung , Tạ Thừa , Hậu hán thư , Bào Phác Tử )


Trương Trọng : Người cương trực , bất chấp trước uy võ .


Trương Trọng , tự Trọng Đốc , người Hợp Phố , học cao , hùng biện , là kẽ sĩ được trọng vọng . Thứ sử chọn làm tòng sự tại quận Nhật Nam . Giúp bàn định kế họach cai trị ngừơi dân trong quận .


Trọng được cử đi sứ Lạc dương , Minh Đế nhà Đông Hán thấy thân hình sứ giả quá nhỏ bé , lấy làm lạ, hỏi bỡn rằng :


- Tiểu sứ từ quận nào đến vậy ?


Trọng lớn tiếng đáp rằng :


- Thần là Kế sứ Nhật nam , không phải tiểu sứ . Bệ hạ muốn được nhân tài nên đối xử như xương thịt gắn bó lấy nhau . Nhà vua ưa cách đối đáp ấy .


Ngày mồng một Tết , đại hội các quan , vua hỏi Trọng :


- Người quận Nhật Nam hướng về phương Bắc nhìn mặt trời , có phải vậy không ?


Trọng đáp rằng :


- Tên ácc quận , có quận Vân Trung , có quận Kim Thành . Chẳng phải thực sự quận Vân Trung ở trong mây , quận Kim Thành có thành bằng vàng . Ở quận Nhật nam mặt trời cũng mọc hướng đông , phong khí ấm áp , ánh dương chan hòa , quan cũng như dân , sống đời thỏai mái , tùy thích hướng mặt , quay lưng về đông , tây , nam , bắc có gì bắt buộc được . Nhật Nam nghĩa là vùng đất ấm áp dưới ánh mặt trời ở phương Nam vậy .


Vua nghe rất thích , thưởng cho vàng lụa . Từ đấy , mỗi lần Trọng dâng kế sách hoặc đối đáp , đều được ban thưởng .


( Tham khảo và tu chỉnh : căn cứ vào các sách Phạm Thái Cổ Kim , Thiện Ngôn , Thái Bình Ngự Lãm , Thủy Kinh Chú ).


Dưỡng Phấn : Thiên nhân cảm ứng gia . Dưỡng phấn tự là Thúc Cao , người ở Uất lâm , tài học uyên bác , tinh thông sách cổ , áo vải xuất thân được cử làm hiếu liêm .


Hòa Đế hỏi rằng :


- Âm Dương bất hòa , hoặc có thủy tai , hoặc có hạn hán là tại sao ?


Phấn thưa :


- Trời có âm dương . Âm dương có bốn mùa , bốn mùa có chính lệnh . Chính lệnh xuân hạ ban cho ân huệ , bố thí khoan dung . Chính lệnh thu đông , cứng rắn sắt đá , uy nghiêm , mạnh mẽ , thưởng phạt sắt đá . Nếu như chính lệnh triều đìnhứng với chính lệnh bốn mùa , thì âm dương hòa . Âm dương hòa thì bốn mùa điều hòa .Bốn mùa điều hòa thì gió mưa đúng , gặt hái ngũ cốc dồi dào kho lẫm .


Nay thì không thế . Quan lại phần đông cai trị người dân không theo thời lệnh , việc làm ngược với thiên khí . Trên không đóai thương dưới . Dưới không trung với trên . Trăm họ khốn đốn mỏi mệt , quan al5i chẳng chút xót xa . Lòng dân óan hận , uất ức ngập trời . Vì thế cho nên âm dương bất hòa , gío mưa không đúng mùa vậy .


Nói về duyên cớ thiên tai , kìa như thủy tai là do âm thịnh . tiểu nhân có quyền , lấy công làm tư , tâu lời xàm bậy , trời đổ mưa xuống , ngập lụt ruộng nương , ngũ cốc mất mùa .


Đã vậy , sưu thuế không giảm , trăm họ káhnh kiệt , ai ai cũng buồn khổ ở trong lòng .


Phấn một thời nức tiếng là bậc danh Nho .


( Tham khảo và tu chỉnh : căn cứ vào các sách : Phong Tục Thông , Thị Tộc Bác Khảo , Thông Chí Lược )


Dưới đây chúng tôi trích dịch một phần của bài Phàm Lệ sách Bách Việt Tiên Hiền Chí để thay cho lời kết luận .


‘’ Theo sách Nhất Lưỡng hán Dư Địa Chí , Cối kê bị chai thành hai phần là Đan Dương và Dự Chương . Một phần thuộc cảnh giới Ngô , một phần thuộc cảnh giới Việt .


Vốn xưa Cối kê chỉ là đất của Việt . Miêu duệ vua Hạ Vũ cai quản đất này . Từ sau biến cố lìa tan , đến định cư ở miền duyên hải Giang nam , kẻ làm vương , người làm quân trưởng . Dòng dõi Bách Việt sinh sôi đông đảo , sống đời hạnh phúc , nức danh ở đây .


Đất nứơc của các quân trưởng ở chốn thực là xa xôi , đến tận Nam Hải , Quế Lâm . Từ Hán về sau , để tiện việc cất quân đánh chiếm , đã phân chia Việt thành Châu thành quận lấy lệ mà thôi . Tên đất , nhà Hán cũng tự đặt ra , sai khác khá nhiều với tên đích thực . Nay muốn viết cho thật đúng đắn , phải dùng sử sách của người bản xứ . Đơn cử th1i dụ hai đất Lư Phượng , Hòai Dương , nhà Hán gọi bừa là quận Đông Hải , quận Hòai Lâm . Tuy sách Hán Ch1i có vẽ bản đố phân định cương giới của Ngô với thục , cũng vẫn chỉ là vẽ cho có vẽ , không đúng sự thực .


Kìa xem một xứ Cối kê , đất mặn đồng chua , mênh mông , rộng lớn . Tần gọi là quận , Hán lại cắt chia , một phần gọi là Ngô quận , rồi đặt chức quan Thái Bá , chăn dắt , giáo háo dân ở quận này ! Hành vi ấy giả nhân giả nghĩa ! Vốn từ trước khi Hán thuộc , tinh hoa đạo học phương Nam đã dung chứa nền Khổng học . xét trong sách sử còn giữ đến nay , khi Hán đến đất Cối kê , nhân sĩ đây đã nhiều , theo về với han có các vị : Thiệu Bình , Từ Cầu ở quảng lăng , Hàn tín , Mai thừa ở hòai Âm , Anh Bố , Văn Ông ở Thư Lục , Tiêu hà , Tào Tham ở Bái Thượng …’’’


Từ giáo sư Trần đến câu chuệyn ‘’ Lịch sử Tư Tưởng Văn Hoá Việt Nam ‘’ do giáo sư Nguyễn Đăng Thục kể sau đây .






B . HAI NGUỒN GỐC TƯ TƯỞNG VIỆT NAM


Hai khuynh hướng Nguyên thủy của tư tưởng Tôn giáo .


Triết học và Nghệ Thuật Việt nam


Ý nghĩa tượng trưng của Đồng Cổ hay Trống Đồng và ý nghĩa của Cổ Mộ hay Thiên Động trong hai nền Văn Minh tối cổ Việt nam , Văn Minh Đông Sơn và Văn Minh Lạch Trường .


Văn minh Đông Sôn với Trống Đồng .


Miền châu thổ Nhị Hà hay Hồng hà , ngày nay là miền Bắc Việt , vốn từ ngàn xưa là nơi cố đô lịch sử của Việt Nam , có một địa lý tự nhiên cùng khí hậu tách biệt hẳn với Trung Hoa , phía Bắc kể từ dãy núi Ngũ Linh trở lên , phía Tây là dãy Trường sơn hay Núi Ngang chạy từ Tây tạng xuống đến Cà Mau Nam việt , chia cõi đất bán đảo Đông Dương hay Ấn độ Trung quốc thành hai khu vực Đông tây rõ rệt .


Gần đây các nhà khảo cổ học khai quật tại Bắc Việt , phía Bắc Trung việt ở tỉnh Thanh Hóa , một di tích cổ xưa của một nền văn minh có trước khi Bắc việt bị người tàu đô hộ . Ấy là văn minh Đông Sơn cổ . Nay hãy tuần tự nghiên cứu ý nghĩa văn hóa của từng đề tài một .


Trống Đồng - Tài liệu khảo cổ học .


Trống đồng là những tài liệu quý giá cho xã hội học và nhân chủng học cũng như cho văn hóa học và tiền sử học Việt Nam . Người ta bắt đầu tìm thấy ở châu thổ Bắc Việt , một chiếc thứ hai đào được ở làng Hòang Hạ , tỉnh Hà Đông giáp với tỉnh Hà Nam , cách mặt đất 1.50 m . Đấy là hai chiếc trống tòan vẹn nhất .








                                                 ( Trống đồng Đông sơn - từ             )
























Hiện nay các nhà khảo cổ học theo cách vẽ chạm trổ trên mặt trống có xếp kiểu trống vào bốn lọai khác nhau : thứ nhất đều thuộc vào khỏang trước tây lịch kỷ nguyên . Đấy là lọai cổ nhất . Theo ông Paul Levy , Trường Viễn đông Bác Cổ ( E.F.E.O) thì đại khái các trống này đã được chế tạo trong một khu vực khá rộng , từ biên giới Hoa- Mông cho đến các đảo tân Gui- nê , í nhất là từ 2000 năm nay . các trống đồng lớn bày ở Bảo tàng Hà Nội trước 1945 là những cổ vật mà Viện Bác Cổ tìm thấy ở Thanh hóa , nhân dịp người ta còn tìm thấy những tiền đồng đời Hán bên tàu . Vì thế có thể định được niên đại : Một số các trống đào được đều thuộc vào lọai 1 và chế tạo vao khỏang đầu kỷ nguyên Dương lịch .


Trên mặt trống có nhiều hình vẽ . Nhất là sách tàu chép rằng : xưa kia dân ở miền đồng bằng Bắc Việt , phía Bắc Trung Việt có thể chế tạo và sử dụng những trống đồng mà hình dáng kể lại trong sách cũng tựa như các trống mà ta thấy ngày nay . Bởi thế nên at thấy rằng hình chạm và cách bài trí trên mặt trống đối với các nhà sử học và nhân chủng học co một lợi ích không phải nhỏ . Như thế thì hình dáng , quần áo , nhà cửa , thuyền bè , khí giới , các đồ vật khắc trên trống đồng rất có thể là hình dáng vật dụng của người Nam xưa kia . Mang so sánh ta thấy các cảnh trí ở nhiều điểm giống cảnh sinh họat hiện thời của những dân tộc Nam Dương ( Indonesia )nên các hình vẽ trên mặ trống là những tài liệu lịch sử quý giá cho sự khảo cứu về nguồn gốc dân tộc Việt ‘’ Paul Levy .


‘’ Ngòai ra xét cách trang trí phụ thêm vào các hình chính người ta thấy rằng kỹ thuật làm các trống này nhất định có quan hệ với nghệ thuật nhà Hán bên tàu . Nhưng không phải thế mà có nghĩa Trung Hoa là nơi phát sinh ra kỹ thậut mỹ nghệ trống đồng , vì có những bằng chứng chính xác cho rằng chính thực mỹ thuật Đông Dương ( Indo – China ) còn bị ảnh hưởng văn minh Âu – á ( Eurasie ) đầu tiên tràn xuống miền Nam trung Hoa và về sau tới phía Bắc Đông Dương . Mãi đến đầu kỷ nguyên Tây lịch , nghệ thuật mới được nghệ thuật Trung hoa đời Hán phát triển thêm ‘’( Recherches prehistoriques dans la region de Mlu Prei P.Levy B.E.F.E.O t XXX 1943 ).


Thực vậy , chúng ta bây giờ biết chắc rằng vào khỏang thế kỷ thứ II hay III trước kỷ nguyên nghệ thuật Trung Hoa thời Hán đã bị văn minh trung bộ Áo Tế á ảnh hưởng rồi . Vậy nếu ông V. Goloubew mang so sanh cách trang trí trên các trống cổ với ácch trang trí trên trống của thầy phù thủy Mông Cổ , thuyết của ông rất hợp quan điểm khoa học ngày nay , ( Les tambours magiques en Mongolie . V. Goleubew B.E.F.O XXXII )


Trống đồng để ở hà Nội mang trên mặt hình vẽ sáu chiếc thuyền , ở giữa có những con chim lớn đậu . các thuyền đều cùng một kiểu . Vỏ thuyền khum khum vòng vòng nửa vành trăng . Ở giữa nhô lên một cái ụ có trang trí , có lẽ là cột buồm . Giữa cái ụ với đuôi thuyền có một kiến trúc mái phẳng , ở trong đó có một cái trống . Những trang trí ở mũi thuyền và đuôi thuyền đều gợi lên hình ảnh cái đầu và cái đuôi chim . thủy thủ của thuyền là một số những chiến sĩ mang dao , cầm tên hay rìu , và hai người trong số có một người đánh trống treo ở cột buồm , một người cầm ámi chèo . một chiến sĩ đứng ở trên mũi thuyền , sẵn sàng bắn tên . các đồng ngũ cũng có vẻ rộn rịp . Tòan bộ cho ta cảm tưởng một cuộc giàn trận theo nhịp trống và người cầm lài đang đẩy mạnh khiến mái chèo uốn cong trong tay y .


Nhìn kỹ đến cách trang sức của các nhân vật thì tất cả trừ người bắn cung đều mặc áo lông chim hay khóac cánh chim dương lên không trung như là những mào kỳ quặc .


Sự trá hình như thế nào chưa hết . các đồ vật , khí giới , dụng cụ trên thuyền cũng đều đột lốt , đến nỗi cái thuyền không còn hình dáng thông thường của chiếc thuyền nữa . Nhưng đấy không phải là sự hóa trang tầm thường , chắc hẳn là một sự biến cải tế nhị mà mục đích là để minh chứng cái đống nhất của một bộ lạc chiến sĩ với một con chim vật tổ ( totem ) . theo sách Đường Thư do ông Hirth đã trích dẫn có ghi trong các bộ lạc xứ Bắc Việt bây giờ dân Lào có cái đầu bay hay đầu chim mà lễ nghi thi hành theo điệu trống đồng .


Mắt chim hình ra bằng các vành khuyên có chấm ở giữa , ngòai ý nghĩa riêng còn là đề tài nhắc đi nắhc lại khắp các nơi khác ở đằng trước mũi thuyền , ở chổ mà người ta thường thấy đôi mắt của ghe tam bản , ở trên mái chèo , bánh lái , trên tất cả các trang trí và ở mũi tên nữa . Trên mặt trống cũng thấy những hình vẽ ấy , vành khuyên , lông cánh chim , khiến người ta có cảm tưởng cái trống có các đức tính siêu hình của hình vẽ , nhắc đi nhắc lại nhiều lần . Trên tang trống cũng thấy hình bóng nửa người , nửa chim . chắc hẳn tất cả những hình vẽ ấy có quan hệ với tín ngưỡng thần bí và nghi lễ gì đầy vẽ ma thuật củq một đòan thể cổ xưa .


Muốn hiểu ý nghĩa Thần bí của các hình vẽ trên trống đồng Đông sơn , chúng ta phải so sánh với tục lệ dân dayak trên đảo Bornéo . Dân này rất ưa nghệ thuật cũng như dân miền thượng du Đông dương mà họ là bà con gần . họ ưa chuộng những màu sắc sặc sở của hình vẽ than . Hình văn thân của họ là kiểu mẫu của nghệ thuật đồ hình ( graphique ) cũng như những hoa dệt trên vải và chiếu chăn của họ . họ có một thế giới tưởng tượng riêng mà nguồn gốc xa xăm mờ mịt . Nhưng trong các đề tài xa xăm ấy có một đề tài giống hệt với những hình thuyền trên trống đồng Đông sơn để ở Hà Nội , ấy là hình đảo Borneo . sau khi thôi không đi biển nữa ‘’ thuyền vàng biến thành thuyền ‘’Bát nhã ‘’ chở linh hồn người quá cố sang hòn d0ảo cực lạc ở giữa Vân Hồ . Thuyền này do một vị Thần điều khiển gọi là ‘’ Tem phong Telou ‘’ . Mũi thuyền và đuôi thuyền phỏng theo đầu chim và đuôi chim Tingang ( Buceeos: cò ) mà nó mang tên . Cột buồm có lông chim làm chỗ đậu cho những con chim đưa đón người chết . Mọt cái mái bồng ở sau thuyền chứa những trống và chiêng . Không có người cầm mái chèo , người thủy thủ mang một cái giáo , chính ‘’ temphong Telou ‘’ cầm lái .




     (  Borne'o  - từ               )                                                           ( Người Dayak- từ                  )








Xét kỹ những hình Dayak về đề tài Thần bí này người ta càng thấy giống với đề tài vẽ trên trống đồng Đông sơn , nào cột buồm chim đậu ở giữa thuyền , nào bài trí hình tượng chim , nào mạn thuyền chứa nghiêng thay cho trống thời xưa … Đấy là tấ cả những hình vẽ trên trống đồng Đông sơn . Lại còn trên một hình vẽ Dayak , ở sườn thuyền có những hình vành khuyên . ý nghĩa ma thuật của cách bài trí ấy không còn nghi ngờ gì nữa , vì là những hình thường thấy vẽ trên mộ và cửa nhà tang của dân Daysk . Cũng cái đề tài ấy thấy vẽ trên văn thân gợi cánh chim ASrgus : phượng hòang khổng lồ hay đi với hình ảnh chim buceros : cò , chim của thuyền người chết , hay là ‘’ Thần nanh mỏ đỏ ‘’ . Như vậy ý nghĩa các cảnh trí chạm vẽ trên mặt trống đồng có thể hiểu được nếu so với lễ Tiwah là lễ tang ma chon cất người chết của dân Dayak . lễ ấy như lễ ma chay siêu thóat cho linh hồn người chết khỏi bị trở ngại vì tục lụy và đưa đến sống an vui với cực lạc , siêu sinh tịnh độ .

Lễ suốt bảy ngày , sửa sọan mất hàng tháng rất phức tạp , cần đến thầy cúng và bà cốt ( blian ).

Trước khi làm lễ Tiwah người ta phải làm một cái nhà sàn ( sandong-raung) kiểu nhà trên trời để linh hồn tinh khiết của người dayak đến ở . xây cất cẩn thận như mộ nhà tang có tranh hòang tô điểm bằng những hình ảnh linh thiêng ma thuật . Khi nhà cất xong người ta chứa đầy tặng phẩm , dân làng tụ họp lại ở nhà bà con gần nhất của người chết mang theo nhạc khí như khèn ( Keluri ) và trống đồng , trống đánh đổ hồi suốt đêm ngày để xua đuổi tà ma và báo hiệu cho sự siêu thóat sắp đếm của thân chủ . Phù thủy , tầhy cúng đuổi các chim thần nanh mỏ đỏ canh gác rình chờ linh hồn và đe dọa thu cướp lấy . Đồng thời người ta giã gạo để cúng . các lọai nhảy múa , rước sách , cỗ bàn đóng vai trò trọng yếu trong lễ Tiwah . lễ đi đến một độ cực điểm vào lúc linh hồn sau khi thu nhận lễ vật sắp bước vào thuyền chay bát nhã Tempong Telou .

Chính là cảnh đám lễ ma chay giống hệt với lễ Tiwah ấy mà chúng ta mục kích ở hình vẽ trên mặt trống đồng Đông sơn vậy . Cũng nhà mồ hay nhà tang với trang trí lông chim và hình vành khuyên , cũng phù thủy đuổi chim ‘’ Thần nanh đỏ mõ ‘’ rình chờ linh hồn trên nóc nhà , kẻ đánh trống , kẻ múa rước theo nghi lễ , kẻ giã gạo và cảnh thuyền bát nãh chở linh hồn sang thế giới bên kia với khí giới và trống đồng . Như thế là tòan thể cảnh trí biểu diễn đề tài duy nhất quan hệ với người chết và tín ngưỡng linh hồn bất diệt . Trong tư tưởng dân dayak thì linh hồn người chết có cả một xã hội tựa như xã hội người sống . Người chết rồi cũng xây cất nhà , cũng cày ruộng và làm lụng như sinh thời . Cũng như người sống , ở xã hội người chết nhóm nọ giúp đỡ nhóm kia , người chết cũng vẫn giao dịch trao đổi việc làm với nhau . Người sống có thể giúp đỡ người chết , cúng dâng thực phẩm , đồ vật nhu cầu và người chết cũng lại phù hộ người sống hoặc cho thuốc thần bí , cho bùa , phép để chữa bệnh .

Như thế đủ để thấy trống đồng hà Nội với những hình vẽ phong phú đã chứng minnh một nền văn minh nguyên thủy còn lại di tích ở dân Dayak xứ Borneo tại quần đảo Nam Dương . cả đến những đồ đồng khai quật được ở Đông sơn cũng có quan hệ với đồ đồng ở Nam Dương , điều ấy không chỉ lạ vì theo công cuộc khám phá của ông H. Keru người ta chứng minh từ lâu rằng : ‘’ dân Mã Lai – Polinesien – với các chủng tộc ở Đông Dương thuộc về cùng một chủng tộc . Người ta đã thấy những sọ người Indonesia ở tỉnh Ninh Bình và Hòa Bình phía Bắc đồng bằng Bắc việt ngày nay .’’ và ông L. Finot đã kết luận về trống đồng kiểu Hà Nội rằng : ‘’ những đồ đồng xưa phô bày hình ảnh một dân tộc canh nông săn bắn , thủy thủ thờ vật tổ mà cách ăn mặc không còn thấy ở Đông Dương , nhưng trái lại , lại thấy ở trên các hải đảo ở Thái Bình Dương . Phải chăng chính đấy là dân tộc Indonesian mà về ngôn ngữ chủng tộc đã từng dống trên bán đảo Đông Dương rồi bỏ bán đảo lại cho dân mới đến để di sang những quần đảo trong Thái Bình Dương . Trên bán đảo Đông Dương chỉ còn lại dấu tích về ngôn ngữ cùng phong tục mà chúng ta quên dần đi ‘’ ( B.E.F.E OXXIX 1929 . Lde bronze au Tonkin et dans le Nord Annam . Victor Goloubew ).

Và ông Olov Janse , trong những bài giảng ở trường văn Khoa Đại Học sài Gòn về nguồn gốc văn minh Việt Nam , có kết luận về cổ tích Đông Sơn như sau :

‘’ Trên năm trăm năm trước T.C , đã sống ở đây ( Bắc Việt chung quanh Đông Sơn , Thanh Hóa ) một dân tộc thuộc giống mã Lai cổ sơ , tức là tiền nhân của dân cư miền núi mà ta quen gọi bằng danh từ đáng tiếc là Mọi ; dân tộc ấy cũng coi như tổ tiên của dân Dayak ở Borneo . thời ấy dân tộc kia chưa vượt quá trình độ Thạch khí thời đại . Nhà cửa của họ là những nhà tranh làm theo kiểu nhà sàn cao cẳng , trên bờ sông , căn bản kinh tế của họ là nghề đánh cá , săn bắn và canh nông thô sơ , ấu trĩ. Người thời ấy tin linh hồn vật linh ( animiste) va đi săn đầu người . đồ gốm của họ rất thô sơ , gồm chum vại có quai nung chưa kỹ và không có trang trí .

Vào khoảng 500 trước TC , tình trạng ấy thình lình biến đổi do những yếu tố văn hóa mới mang lại . dân Đông Sơn lúc ấy học được cách dung kim khí , cách làm đồ nữ trang và búa bằng thứ đá khá quý giống lọai ngọc bích . bấy giờ đồ gốm của họ đã tốt hơn , có trang trí với những mẫu theo hình học . đồng thời cũng đã xuất hiện những kiểu trống lớn bằng đồng đỏ có những mẫu trang trí tượng trưng lọai hình học , hoặc phỏng theo hình người , hình thú hay nhắc lại những buổi lễ tôn giáo . Những hình trang trí trên những mẫu trống ấy chứng tỏ những uan niệm tôn giáo kh1c phát triển gồm có sự tôn thờ Trời và Mặt trời …

‘’ Vào giữa thế kỉ thứ I sau TC , văn minh Đông Sơn đã phải chịu một thất bại nặng nề gây nên bởi cuộc xâm lăng của Tàu .’’

‘’ Theo sử ký ( Annales ) người Tàu đã bắt đầu , từ thế kỷ IV trước TC , du nhập vào Bắc Việt , tuy mới có thiểu số . Đây là những lái buôn , thợ thuyền và hình như họ được tiếp đãi tử tế . sau này vào đầu kỷ nguyên , chính phủ Trung hao , đã gửi đến nhiều nhà cai trị , biến dần xứ này thành thuộc địa . Nhân dân đã nổi dậy kháng cự . Dưới sự điều khiển của hai chị em bà Trưng , quân Hán đã bị đuổi ra khỏi biên giới : để trả thù sự thất bại ấy , vua Tàu đã gửi vào năm 43 sau TC , nhiều đội quân do tướng Mã Viện chỉ huy , để chinh phục lại xứ này . Theo sử chép , một trong những đạo quân đã vượt xuống miền châu thổ Thanh Hóa , dọc theo lưu vực song mã , nơi vị trí của làng Đông Sơn . chắc hẳn lúc ấy làng Đông sơn đã bị cướp bóc và thiêu hủy . Cuộc chem. giết rất ghê tởm . Hàng ngàn người bị giết hay bị bắt làm nô lệ . Một vài lãnh tụ với một nhóm đồng ngũ cũng đã chạy thóat . biến cố lịch sử ấy đã đánh một đòn rất nặng vào nền văn minh Đông sơn , và đã bị suy sụp tại Bắc Việt vì cuộc xăm lăng của quân Tàu , nó vẫn còn sống sót lại ở nơi khác trong khu vực Đông nam á , nhất là nơi các cư dân miền núi . Ở đây chỉ cần đơn cử một vài tỉ dụ như là nhà sàn theo kiểu Đông sơn. Cũng có thể rằng người Mọi cũng giống người khác gọi là Indonesia chẳng ạhn , như dân Dayak ở Borneo , đã giữ lại trong tín ngưỡng phong tục tập quán của họ những ếyu tố nguồn gốc tự thời Đông Sơn . Nhiều hội hè tôn giáo nàgy nay các dân tộc ấy vẫn còn cử hành nhắc nhở đến những cảnh tượng hình dung trên mặt trống đồng Đông Sơn . Bởi vậy sự chế tạo trống đồng này vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay , người ta không lấy gì làm lạ khi thấy rằng ở nhiều địa phương hiện còn cô lập , có những uan niệm tôn giáo và những tư tưởng liên quan đến trống đồng Đông Sơn , Chúng ta cũng có thể tự hỏi pải chăng một vài kỳ niệm hội hè tôn giáo Đông Sơn còn tồn tại ở Bắc Việt ngày nay trong những hội đầu mùa , mà vào dịp tết la hội đầu mùa , mà trọng yếu nhất người ta chẳng đã muốn luôn luôn mở đầu bằng một hồi trống ? ( thuật theo Việt Nam Carrefour de peoples et de civilisations , trang 1648-1651 , Olov Janse ed. France Aise ).

Trên đây đại khái khảo cổ học cho ta thấy đặc trưng của nền văn minh Đông Sơn là trống đồng hay đồng cổ của nhóm dân tộc cổ sơ trên châu thổ Bắc Việt ngày nay trước khi bị làn song di dân từ Tây Bắc lục địa Châu Á tràn xuống bờ biển và hải đảo Đông Nam Á . Dân tộc ấy thuộc về hệ thống chủng tộc Indonesien- Malainesien-Polynesien rải rác khắp Thái Bình Dương . Trống đồng ấy cho ta biết trước hết về tín ngưỡng của dân Đông Sơn , bấy giờ là tín ngưỡng linh hồn ( animiste ) , vật cổ ( totemiste ) mà trống đồng là dụng cụ mô tả cuộc sinh họat tập thể về đường tinh thần . Muốn hiểu thêm về phong tục , tập quán của nhân dân thời Đông Sơn , của văn minh trống đồng , chúng ta hãy xét tài liệu sử ký và Thần thạoi có liên quan tới trống đồng .

Tài liệu Sử ký , Thần Thọai

Trong quyển ‘’ Bách việt nguyên lưu dữ văn hóa ‘’ ( Trung Hoa tùng thư ) , La Hương Lâm, gần đây có viết :

‘’ Thời cổ , văn hóa của Việt tộc rất đáng được người ta chú ý là sự chế tạo trống đồng với cách sử dụng và trống đồng của Việt tộc lại phải lấy kiểu Lạc Việt làm thịnh nhất , cho nên gọi là Lạc Việt đồng cổ .

‘’ Các học giả và quan chức Trung Quốc chú ý đến vật ấy bắt đầu từ thời Hậu Hán . sách Hậu hán thư , quyển 54 , mục truyện Mã Viện chép :’’ Viện thích cưỡi ngựa , khéo phân biệt ngựa có danh tiếng . Đi đánh chiếm Giao chỉ , lượm được trống đồng lạc Việt , bèn đúc làm con ngựa kiểu ‘’

Trống đồng của Việt tộc thời cổ là do thợ bản xứ chế tạo lấy chứ không phải thợ của bộ lạc khác hoặc thuê thợ Tàu . xét đồ đồng của Tàu trước thời Tần , Hán tuyệt không thấy sự trù tạo trống đồng , và các dân tộc lân cận đều không thấy sự trù tạo trống đồng làm đồ quí , đủ biết trống đồng hòan tòan của Việt tộc làm ra vậy . đến như dụng ý của người Việt chế tạo trống đồng để làm gì , thì theo học giả xưa ghi chú đại khái đều bảo là để giúp người thủ kĩnh có thế lực hiệu triệu quần chúng cùng là để hoan nghênh Thần Thánh , xua đuổi bệnh tệt ma quỉ và cầu sách . Sách ‘’ Tùy Thư Địa lý Chí ‘’ viết :

Đồng cổ dữ man ca

Nam nhân kỳ tài đa

Trống đồng với ca Mường

Người Nam tế lễ thường .



Nhưng khởi thủy thời cổ xưa khi Việt tộc chế tạo ra trống đồng còn có quan hệ với tín ngưỡng ma thuật như thờ Thần Sấm , Thần Mưa . Xét trên mặt trống đồng thường có đúc hình thể ếch , nhái hoặc thiền thừ ( cóc ) , e rằng nhân cầu mưa mà làm như vậy . Ngày nay ở các đất Hoa Nam , người ta đều nhận ếch , nhái hoặc cóc làm động vật trời mưa , bảo rằng cóc ở trong hang ra thì ắt trời mưa to . Như thế vì nhân lúc trời sắp mưa tự nhiên có triệu chứng báo trước , cóc và ếch nhái có cảm gáic mau lẹ , tìm cách tránh nước xâm nậhp cho nên bỏ hang trước mà đi . Thời ban sơ nhân dân trọng vụ thuật Thần giao cách cảm , thấy cóc ra thì có mưa , mới tin cóc nhái có quan hệ với nước mưa . Muốn cho trời mưa họ khiến cho cóc nhái xuất hiện . Tời xưa Việt tộc hay miêu duệ đúc tạc hình cóc nhái trên mặt trống đồng theo lý giả ma thuật của người ban sơ mà suy ra ấy là muốn dung để cầu mưa vậy .Nhưng Việt tộc thời xưa chế tạo trống đồng bắt đầu từ tín nhiệm về Thần Sấm , Thần Sét từ tiền nhân họ từ thời thượng cổ . xét cổ tích dân tộc nhà Hạ đối với Sấm và trống có tín nhiệm liên hệ với nhau thì biết rằng nguyên lai tự đâu . Việt tộc đối với tín nhiệm về thần Sấm có hai sự kiện để làm bằng chứng :

1 . Dân người Lê ( v) ở đảo Hải Nam bảo thời cổ xưa lòai ngừơi do Sấm nuốt trứng rắn mà sinh ar . Và nguyên lai vẽ mặt của chúng cũng do Lôi công ( Ông Sấm ) lập pháp lệnh cho hai chị em người kết hôn lúc ban sơ . Truyền thuyết của dân lê đảo Hải Nam kể rằng : ‘’ Thời thượng thượng cổ , trời đất hỗn mang , sinh vật trên trái đất hết thảy bị vùi dập , nhân lọai cũng chung một tai ách ấy , chỉ còn lại một chị với một em nương nhau mà sống . Nhưng tình chị em than như chân tay , rút cuộc không thể lấy nhau được . bấy giờ chị tìm chồng một đường , em đi tìm vợ một nẻo , kẻ đi về Đông , kẻ đi về Tây , lâu rồi mà chẳng còn gặp lại được ai , rút cuộc hai chị em lại gặp nhau . Một lần , hai lần đều thế . thần Lôi Công thấy thế hiện than xuống gọi người em bảo : nay ta ở lại đây , hai ngươi có thể kết làm vợ chồng được . Người em bảo : Chị em không thể lấy nhau được , làm thế bị Ông sét đánh chết . Lôi Công nói : Chính at al2 thần Sét , quyết không đánh các ngươi . Người em khăng khăng nhất định không nghe lời , cho là không thể được , lại bỏ đi tìm vợ . Bấy giờ Lôi Công mới đem vẽ đen mặt người chị , nhưng lần này bôi mặt nên không còn nhận biết là ai mới đến cầu hôn . Từ đấy chị em lấy nhau mới sinh đẻ đông đúc ra giống người Lê ngày nay ‘’

2 . Chúng cứ thứ hai về tín nhiệm Thần Sấm của Việt tộc là tục rước lửa ngày 24 tháng 6 của giống người Cức-di đất Xuyên , Diều . Họ học tập , ban đêm đốt đuốc dong chơi , vui đùa suốt sang . theo Vương Thành trúc , tạp đàm về dân tục miền Phúc kiến , An Khê thì ngày 24 tháng 6 , cả một ngày hôm ấy , tức là ngày đản nhật của Lôi Công , rất nhiều nông gia trong dân gian cúng bái . Lúc cúng thì cúng cả Đức Mẫu Điện quang . đấy là tiết rước lửa của dân Cúc-di kỷ niệm Lôi Công mà cầm đuốc rong chơi , cũng tượng trưng cho sấm chớp .

Sấm nuốt trứng rắn , Sấm sai vẽ mặt , cùng tục rước lửa chơi đều đều là tục truyền không phải của hệ thống văn hóa Trung hoa truyền bá ra . Đấy al2 tục truyền của Việt tộc thời cổ xưa để lại hay biến thái đi vậy . Kỷ niệm Ông Sấm thì luôn luôn cùng với tín nhiệm trống đồng liên đới . Điều ấy phù hợp với đọan sách Luận Hành , Thiên Lôi Hư của Vương Sùng .

‘’ Vẽ một người với dung mạo lực sĩ gọi là Lôi Công , tay phải cho đeo trống , tay trái cho dương cùi đánh trống , ý nghãi ngụ rằng : tiếng sấm ầm ầm là tiếng trống liên hồi ‘’

Lại còn lời trăm của Vân động Khê ghi rằng : ‘’ Người ta truyền tụng trống đồng có Thần . Trống của một động này bị người của động kia lấy đi , đêm thấy có hổ xuất hiện cắn người , đuổi theo thì thấy cái trống , đem trả lại thì được yên tĩnh ‘’

Đến như mặt trống có nhiều nét chạm theo hình sấm chớp thì lại thấy rằng thời cổ

Người Việt đúc trống đồng không phải không có ngụ ý ký thác vậy , thuật theo Bách Việt nguyên lưu giữ văn hóa . Trung Hoa trùng thư , tháng 12 năm 44 dân quốc , trư giả giáo thụ la hương lâm .

Nay hãy xem xét thư tịch Việt Nam liên quan đến đề tài trống đồng hay đồng cổ văn minh của Đông sơn : Sách ‘’ Đại Nam Nhất Thống Chí ‘’ tập thượng , mục tỉnh Thanh Hóa , nói đến các đền miếu , có nói đến Đền thờ Thần Trống đồng ‘’ Đồng cổ Thần từ ‘’ ‘’ Ở trên núi Đan Nê , thuộc huyện An Định ( Có tên gọi là Núi Khả Lao ) , ngày xưa vua Hùng vương đi đánh Chiêm thành đóng quân ở Núi Khả Lao , đêm mơ thấy Thần báo mộng bảo vua rằng :

- Xin có cái trống đồng và dùi đồng , giúp nhà vua thắng trận phen này .

Đến lúc ra trận thì thấy trên không văng vẳng có tiếng trống đồng , rồi quả nhiên vua được tòan thắng . Vua bèn sắc phong làm Đồng Cổ Đại Vương .

Đời Vua Thánh Tôn nhà Lý , khi còn làm Thái tử ( 1020) vâng mạng đi đánh Chiêm thành , đêm mơ thấy một người mặc áo nhung , tay cầm bảo kiếm , tâu rằng :

- Tôi là Thần Núi Đồng Cổ xin được đi theo để lập công cùng Thái tử . Tới khi bình được giặc , liền lập miếu để thờ . sau khi Thái tử lên ngôi , lại mộng thấy Thần mang bài thơ để bào cho biết là có ba vị Vương định gây sự biến , rồi sau quả nhiên có thực sự . Nhân thế , liền phong làm chức ‘’ thiên hạ Minh Chũ ‘’ , nghĩa là ‘’ Chủ đồng minh của thế giới ‘’ , thăng lên làm Thượng đẳng Thần và hàng năm bắt đắp đàn ở trước cửa đền , sai các quan đến lễ và đọc lời tuyên thệ như sau :

‘’ Thần tử chi đạo , hệ hồ cương thường , vi tử bất hiếu , vi Thần bất trung , Thần minh mạc giám , diễn điệt kỳ môn ‘’

‘’ Đạo làm tôi con cốt ở luân lý cương thường . Làm con không hiếu với cha mẹ . Làm bầy tôi không hết lòng với nước với vua , xin Thần minh ngầm xét tru diệt cả nhà ..’’

Khỏang đầu nhà Lê trung hưng (1561 ) , quân Mạc xâm chiếm các huyện Vĩnh Ninh , An Định , thuềyn quân nàh Lê đóng ở thượng lưu song Mã , tướng nhà Lê liền sai người trinh sát , mới biết là tiếng trống do tự núi Khả Lao phát ra . Đến sang hôm sau quân lê theo đánh quân Mạc , trong khi giao chiến , bỗng có nước trào dâng lên rất mạnh , quân nàh lê bèn thừa thế dong buồm thẳng tiến , khí tếh hăng hái bội phần , làm cho quân Mạc phải thua bỏ chạy .

Khoảng năm Hoằng Định 9 đời vua Lê Kính Tôn – 1600 ) trong tờ sắc phong Sơn Thần có câu : ‘’ Trên song sóng gió giúp cho trận thắng của quan quân ‘’ tức là truyện này vậy .

Khỏang năm cảnh hưng ( đời Lê Hiển Tôn – 1740 ) thường thấy có các tàn vàng hiện ngay trên quán triều thiên , suốt ba ngày mới tan . Lại có một hôm vào buổi gần chiều tối , trong miếu bỗng có mây đen lại từ khắp phía , rồi mưa gió nổi lên đùng đùng , có người ở từ đằng ax nom lại thấy con rồng đen từ trên trời quanh co lượn xuống , đến sang sớm mai ra xem ngòai miếu thì có vẩy rồng vẫn còn rãi rác trên sân miếu . Đó đều là những linh tích hiển nhiên nhiên nhiều người cùng biết . Trải qua các đời nhà Lý và Lê , mỗi khi vào khỏang đầu năm xuất quân , các tướng sĩ hội thề thì lại rước Thần để chứng giám cuộc lễ . Quan thái phó triều Lê là Nguyễn văn Khải nhân có bài thơ sau :



Đài phong củng chiếu thủy loan hòan

Dục tú chung tinh tại thử gian

Đàn thượng phiên biểu tiêu hạn bạt

Không trung xao cổ tẩu cuồng man

Qui bi thạch triện kinh sương lục

Phượng trát kim chương chiếu nhất đan

Kim cổ diệt canh kỳ kỷ cục

Lẫm nhiên chính khí cựu gian nan



Tạm dịch :

Non Đài chầu lại nước bao vây

Chung đúc anh linh tại chốn này

Bầu giốc trên đàn mưa tưới khắp

Trống khua trời thẳm giặc tan bay

Bia rùa , triện đá ngàn sương biếc

Trát phượng , niêm vàng chói nắng gay

Kim cổ cuộc cờ bao xóa đổi

Lẫy lừng chính khí nước non đầy .



Trong đền có một cái trống đồng , nặng ước 100 cân , đường kính hơn 1 thước 5 tấc , cao hơn 2 thước , trong rỗng , không có đáy , bên tai hơi khuyết , trên mặt có 9 vòng khuyên , lưng thắt mà rốn kín , bốn bên có giây khắc chữ thập ngoặc , có văn như lối chữ khoa dầu nhưng lâu ngày không thể trông thấy rõ . Tương truyền khi Tây sơn vào đánh miền đó , cho chở cái trống ấy vào Phú xuân . sau đó người huyện Hậu Lộc lại bắt được ở nơi bến song , rồi báo về tỉnh , tỉnh bắt đem nộp trả về đền . Hiện nay vẫn còn tại đó . Xét trong Hậu Hán Thư có nói , khi Mã Viện sang Giao chỉ có được một cái trống của Lạc Việt . Lại trong Quảng Châu Ký có nói : ‘’ Tục mán , Mèo đúc đồng làm trống , càng cao càng quý , rộng chừng hơn trượng . Khi mới đúc xong treo ở giữa sân . đặt tiệc rượu mời con trai , con gái các nhà hào phú tới lấy vàng bạc đúc những cành thoa lớn để gõ vào trống , rồi những cành thoa ấy lưu lại cho chủ nhân ‘’ . Và trong Tùy thư cũng nói :’’ Các họ Mán hay đúc những trống đồng to , khi có việc đánh trống đó gọi là Đô lão . Trống đúc cao chừng ¾ thước , có mặt không c1o đáy , tiếng kêu cũng không to lắm . Gọi tên là trống Chư cát , cho là Chư cát Khổng Minh chế ra vậy . có thể khi Khổng Minh hùng mạnh Hạch cho đúc trống đồng theo xuống để hạ khí dân Nam .

‘’ Trong sách Minh Nhất Thống Chí – lại cho là cái chiêng của Chư Cát khi đi đánh man di . Xem đó thì trống đồng đã có từ thời Đông Hán , mà không phải bắt đầu từ thời Khổng Minh mới có ‘’ ( Đại Nam Nhất Thống Chí – tỉnh Thanh Hóa , tập Thượng , Văn Hóa Tùng Thư tập 4 )

Lê quí Đôn cũng chép trong tác phẩm ‘’ kiến văn tiểu lục ‘’ của ông : ‘’ Vua Thái tong nhà Lý dựng miếu thờ Thần Đồng Cổ Sơn ở đằng sau chùa Thành thọ . hàng năm cứ đến ngày mồng 4 tháng 4 lập một đàn ở trước miếu này , rồi dàn binh lính , đọc lới thề để quần thần cùng thề . đến vua Nhân Tông thì họp quân nhân trong thiên hạ thề ở sân Long Trì .

‘’ Vua Nhân Tông lại định lệ : hàng năm cũng theo ngày mồng 4 tháng 4 , sáng sớm hôm ấy đức vua ngự cửa bên điện Đại Minh , quần thần đều vận binh phục tới lễ hai lễ rồi lui ra . Các quan đi đều có xe ngựa , binh lính theo đi ra l;ối cửa Tây thành rồi đến hội thề ở miếu Đồng Cổ Thần . Quan Kiểm chánh đọc lời thề rằng :

‘’ Vi Thần tận trung vi quan thanh bạch ‘’

‘’ Làm bầy tôi thề hết lòng , làm quan thề trong sạch ‘’

Thề xong quan tể tướng kiểm điểm từng người , nếu ai vắng mặt phải phạt 5 quan tiền .

Lễ này thời ấy cho là một lễ rất thịnh vậy ! ‘’

( Kiến văn Tiểu lục , trang 113-114 , Lê quí đôn – bản dịch Lê mạnh Liêu – t3 sách dịch thuật 1963 )



Ngụ ý triết học của Trống Đồng



Trên đây là một số tài liệu liên quan đến trống đồng , từ tài liệu khảo cổ học , cho đến tài liệu sử học , văn học , Thần thọai tụ truyền . qua những tài liệu ấy chúng ta có thể tìm thấy ngụ ý triết học đầu tiên của dân tộc từ điểm khởi phát của bộ tộc Đông Sơn đến quá trình chuyển biến của dân tộc trưởng thành .

Trống đồng đã tập trung tất cả các tinh thần văn hóa Lạc Việt thời đại Đông Sơn , tức là thời kỳ mà Việt tộc mới chỉ là một bộ lạc ấu trĩ , các phần tử còn sống chìm trong tinh thần vật tổ thần bí . Vật tổ ấy là con chim Hồng lạc hay Lạc Hồng ( Bceros hay argus ) theo các nhà khảo cổ học , mà ngày nay người ta còn mường tượng qua hình ảnh con cò , nhất là qua hình ảnh người thôn nữ Bắc Việt , chít khăn mỏ quạ , khóac cái áo tơi lá gối , lom khom dưới ruộng trời mưa . vậy ở thời vật tổ tất cả những phần tử Lạc Việt đều tự đồng nhất với con chim vật tổ , chỉ có một ý thức là ý thức vật tổ , chỉ có một mệnh lệnh tối cao là mệnh lệnh vật tổ , không một cá nhân nào tự ý thức mình còn là cái gì một khi rời khỏi hồn thiêng vật tổ . Vật tổ bấy giờ hòan tòan thay thế , đại diện cho Việt tộc , là hiện thân hồn nước .

Nhưng rồi chẳng bao lâu , khi biết dùng kim khí , nhân dân Lạc Việt Đông Sơn đã chế tạo ra được cái trống đồng , và từ đấy về sau cái ý thức rất linh thiêng nhưng bàng bạc của vật tổ dã được cụ thể hóa ra hiệu lệnh của tiếng trống đồng rồi vậy . Bởi thế mà trống đồng là dấu hiệu củan quyền thế chúa tể quần chúng , tù trưởng bộ lạc , lãnh tụ của đòan thể , nổi hiệu trống để kêu gọi nhân dân , điều động ba quân , nào trống thúc quân , trống thu quân , trống cầm canh , trống ngũ liên , trống thu không , tất cả sinh họat của đòan thể hầu như khuôn theo nhịp trống . Bởi vì tiếng trống đồng vang động như sấm , nên cũng có quyền năng uy lực siêu việt . Do khi đánh lên , âm thanh có thể động tới cõi u minh , linh thiêng huyền diệu . Tục ngữ Việt Nam nói ‘’ đánh trống qua cửa nhà sấm ‘’ cũng là nói đến cái năng lực ma thuật của tiếng trống đồng với tiếng sấm là một quyền năng thiên nhiên được các dân tộc cổ xưa thần thánh hóa , như ở Ấn Độ Thần Sấm Indra là Thần quyền thế điều khiển vũ trụ vậy .

Vì tiếng trống dùng làm trống trận , cụ thể hóa cái ý thức vật tổ thần bí tức là ý thức đòan thể dân tộc , cho nên tiếng trống càng có hiệu lực , uy linh , đại diện cho tiếng nói của đòan thể , mà sớm được Thần hóa phụng thờ như một Thần linh thay vì vật tổ như là ý chí tối cao tòan năng của quốc gia vậy . Hơn thế đến khi dân tộc đã quật cường bằng xương máu của biết bao liệt nữ , anh hùng thì ý thức tập thể quốc gia càng trở nên uy linh để bảo vệ đất nước , nhà vua với quần thần lãnh đạo quốc gia càng phải đồng tâm nhất trí , cho nên Thần Đồng Cổ tức Thần Trống đồng cũng như Thần Sấm , Thần Sét biểu thị ý chí tòan dân , có uy lực tru diệt kẻ phản quốc , phản dân tộc . Vì thế mà nhân dân đã chọn ngày mồng 4 tháng 4 hàng năm để cho quần thần uống máu ăn thề , vì Thần Trống Đồng đã đồng nhất hòan tòan với Thần Sấm , hàng năm chỉ bắt đầu lên tiếng vào giao tiết cuối xuân sang hạ , báo hiệu nhân dân nông nghiệp sắp có nước để cày cấy .

Xem như thế thì lịch trình biến hóa ý nghĩa tượng trưng của trống đồng đã theo sát với lịch trình tiến hóa ý thức quốc gia dân tộc của Việt tộc . Từ một bộ lạc với ý thức vật tổ Thần bí thời đại Đông Sơn , Việt tộc đã tiến đến ý thức quốc gia sau khi mở rộng khu vực định cư , tăng mật độ nhân khẩu , sáp nhập các bộ lạc vật tổ khác . Lúc đầu mối liên hệ giữa bộ lạc với bộ lạc còn rời rạc như thời Nhà Ngô , Nhà Đinh , dần dần liên hệ trở nên vững chắc kiên cường với Nhà Lý , nhờ sự tăng tiến thế lực của vai trò lãnh đạo càng ngày càng trở nên hiện thân cụ thể cho uy quyền quốc gia . Bởi thế mà bắt đầu với Nhà Lý mới có nghi lễ ( uống máu ăn thề ) ủa quan chức hứa trung thành với vua , trong s5ch với nhân ân trước đền thờ Thần Đồng Cổ , nhà xã hội học viết : ‘’ Sự trung thành với vua là một liên hệ chính trị cơ bản … Dân tộc đồng nhất với triều đại , do mộtbhiện tượng tương tự với hiện tượng chuyển giao tất cả thế lực của tín ngưỡng cổ xưa xuất phát ra , tất cả Thần lực huyền bí của vật tổ cho các vua chúa đầu tiên ‘’ ( Frazer- Les origines magiques de la royaute’ )

Trên lịch trình tiến hoá ý thức dân tộc mà nhà xã hội học nhận thấy trong lịch sữ tiến hóa của tất cả các xã hội nhân lọai nói chung , thì ở đây cái ý thức dân tộc của Việt tộc cũng tiến hóa theo cái định luật chung của xã hội học , nhưng chỗ riêng biệt của Việt tộc là trên lịch trình tiến hóa về ý thức dân tộc nó cũng mang theo sự tiến hóa về ý nghĩa tượng trưng của trống đồng từ chỗ tượng trưng cho uy lực thủ lĩnh , tù trưởng một bộ lạc , đến dụng cụ của việc cúng tế , múa hát , hoan lạc , mời thần , cầu đảo , để rồi trở nên một vị Thần linh đại diện cho hồn nước , cho ý chí thiêng liêng mãnh liệt như sấm sét của dân tộc , của quốc gia để bảo vệ lòng trung tín của con dân đối với Tổ quốc , của triều đình quan chức đối với nhà vua , thủ lãnh của dân tộc . vậy trống đồng quả là tượng trưng cho tinh thần dân tộc của Việt Nam , cái ý chí độc lập tự cường qua thời gian và không gian vậy .

Cái ý chí dân tộc ấy tập trung cả vào người lãnh đạo mà lý tưởng đã được nông dân Việt Nam chất phác phô diễn qua truyện cổ tích phổ thông , truyện Bánh Chưng , Bánh dầy . Qua truyện ấy chúng ta thấy vai trò lãnh đạo lý tưởng của nông dân , trước hết có một tin tưởng mạnh mẽ vào linh hồn tổ tiên bất tử , hàng năm lấy kết quả mồ hôi , nước mắt của nông dân , dâng lên kỷ niệm với ý nghiã ‘’ ăn quả nhớ kẻ trồng cây ‘’ ‘’ uống nứơc nhớ nguồn ‘’ . Người lãnh đạo ấy cũng phải coi thiên hạ quốc gia là của chung , không phải của riêng một nhà , một họ , cho nên Hùng vương không nhường ngôi vua cho con trưởng , mà là cho người có tài , có đức , thông hiểu phương pháp tổ chức xã hội kinh tế của nông dân , thích ứng với thiên thời , địa lợi , nhân hòa như tượng hình vuông tròn của Bánh chưng , Bánh dầy đã qua hàm ngụ ý nghĩa .

Trăm năm tính cuộc vuông tròn

Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông

Hay là :

Trời thời , đất lợi lại người hòa

( Phan Thanh Giản )

Quan niệm vai trò lãnh đạo dân tộc ấy quả in sâu vào tâm khảm giới sĩ phu Việt Nam trải qua các thời đại lịch sử , thời bị đ6 hộ cũng như thời được độc lập , chỉ cần chúng ta kê cứu hành động và tư tưởng các minh quân lương tướng Việt Nam không hiếm , thì đủ thấy chứng minh vậy .

Nhưng tinh thần dân tộc ấy không phải và cũng không có thể biến tàhnh chủ nghĩa quốc gai dân tộc quá khích , bế quan , vì không phải một mình trống đồng tượng trưng nền văn minh Đông sơn là nguồn gốc khởi thủy của tư tưởng Việt Nam . Bên cạnh nền văn minh thứ hai , văn minh Lạch Trường , mà đặc th2u là cổ mộ phỏng theo hình dung các động thiên tạo hay Thiên động . Ấy là nguồn gốc khởi thủy thứ hai của tư tưởng Việt Nam , nguồn gốc có một ảnh hưởng chẳng kém phần quan trọng so với nguồn gốc thứ nhất trên đây .



Văn minh Lạch Trường với Nhà Mồ Thiên Động



Khảo cổ học giáo sư Olov Janse’ , trình bày kết quả công trình khảo cổ về nguồn gốc văn minh Việt Nam đã viết về Văn minh Lạch Trường như sau :

‘’ Thời kỳ thứ hai được tiêu biểu bời thứ kỹ nghệ gọi là kỹ nghệ Lạch Trường , và đại để thuộc ba thế kỷ đầu trước và sau Thiên Chúa . sự phân phối về địa lý của kỹ nghệ ấy , bao gồm Bắc Việt , một phần Trung Việt và một vài vùng khác chưa xác định rõ của miền Tây Nam Trung Quốc . Văn minh đó phần lớn thuộc gốc người Thái . ( Nguồn gốc văn minh Việt Nam – Olov Janse’ , Đại Học Huế xuất bản – trang 6 )

Và ông viết tiếp : ‘’ Khi chúng tôi bắt đầu công việc ( 1934-1939 ) thì Ông Giám đốc Trường Viễn Đông Bác Cổ đã giao ph1o cho tôi điều khiển công cuộc tìm kiếm cô 3mộ trong tỉnh Bắc Ninh , cách ít chục cây số về phía Đông Hà Nội , nhằm mục đích nghiên cứu một số phần mộ bằng gạch mà lúc bấy giờ , theo ý kiến thông thường , người ta cho là những kiến trúc của Người Tàu . Trước tiên chúng tôi đã phát lộ ra gần Chợ Lim một ‘’ Kiến trúc lớn gồm có hơn năm phòng , mỗi phòng giống như một tụy đạo ( đường hầm ) . Có những kiến trúc khác , giống như thế được phát lộ trong vùng đó . Chúng tôi cũng tìm thấy những mộ phần chỉ gồm có một phòng , thường chia làm ba ngăn , bởi những lớp vách vòng cung . vật liệu đã đơuợc dùng có vẻ bí ẩn và chứng tỏ những sáng kiến mới mẽ hẳn lên đến nỗi làm cho ta phải ngạc nhiên , trong cách kiến trúc mộ phần …’’

Những mộ phần đầu tiên chúng tôi quan sát ở Bắc Ninh , thì được xây cất trong những đồi núi thiên nhiên và cho ta cảm tưởng những hang động nhân tạo . Điều này không có gì đáng ngạc nhiên , vì thực ra chẳng ạhn ở Tứ Xuyên ( Tsewtchouan ) miền Nam Trung hoa đã thấy có những mộ phần đào cất trong sườn núi . Những mộ phần hang động ấy có vào khỏang thời đại nhà Hán . Ngừơi ta cũng lại phải nhận định rằng cái ý niệm hang động siêu nhiên , có một vai trò trọng yếu trong tín ngưỡng đạo giáo . Theo tín ngưỡng này thì trong lòng một quả núi lớn có những hang động mà cái vòm tượng trưng vòm trời , lòng đáy phù hợp với đất . Cửa vào những hang động ấy là biên giới giữa thế giới vật chất và thế giới siêu hình ‘’

‘’ Tín ngưỡng ấy đã lưu hành ở thời đại Nhà Hán , bằng chứng là có nhiều lư hương , đỉnh trầm bằng đồng hay sắt nung mô phỏng hình quả núi với những hang động si6u nhiên . Những tác phẩm ấy thuộc vào thời kỳ người ta bắt đầu nậhp cảng vào nước Tàu , những gỗ thơm từ Việt Nam hay ba Tư ( Perse ) đem đến . Quả núi được coi như đại diện thiên động của Đạo giáo có các vị Thần tiên cư trú . Dĩ nhiên là các nghệ sĩ đã muốn cho những lư hương , đỉnh trầm ấy một hình dáng và trang trí tượng trưng để gợi lên không khí cực lạc mà mùi hương trầm đã đem lại ‘’ ( Trích dịch ‘’ Việt Nam carrefour des peuples et des eivilistions’’ của Olov Janse’ – France – Asie ed. Tokuo 1961 )

Tìn ngưỡng Thiên động với dân Việt Nam



Trên đây là nhận xét cổ học trên đất Bắc việt của nhà khảo cổ học danh tiếng , hội viên trường viễn đông Bác Cổ ( E.F.E.O ) là ông Olov Janse’ từng trình bày ở Đại Học Văn Khoa Sài gòn . Theo trình bày của ông thì tín ngưỡng Thiên Động ( Grotte – Ciel ) do cổ mộbhạt bắc Ninh đã khởi niệm , trong ấy ý tưởng chính là trong lòng ngọn núi lớn có hang động mà vòm tượng trưng vòm trời và đáy đại diện cho đất . Cửa động ấy là biên giới ngăn cách thế giới vật chất và thế giới siêu hình . Núi được coi như Thiên Đường của Đạo giáo , nơi cư trú của Thần tiên bất tử . Như vẫn theo giáo sư Olov Janse’ cái ý tưởng hình ảnh ngọn núi với đạo phái hợp với hìnha 3nh núi Tuyết sơn ( Himalaya ) cao ngất trời ở Phương Đông đã tạo lập ra và ảnh hưởng sang Trung hao và Việt Nam . Giáo sư viết :

‘’ Người ta tự hỏi phải chăng các Đạo sĩ chẳng đã mượn ý tưởng núi cao , cung điện của Thần tiên ( trên đây của Hy Lạp ) ?.

‘’ cả đến quan niệm cái động phủ siêu nhiên cũng nên tìm nguyên lai ở Phương tây và người ta khó thể giải thích chỉ bằng một lý ngẫu hợp các sự kiện quan niệm Động trời tràn lan lan sang phía Tây Trung Hoa và sang Việt Nam ở thời có cuộc xâm lăng của dân Hắc Hải . Sự thực , hang động đã có vai trò trọng đại trong tín ngưỡng bình dân ở Phương Tây kể từ thời xa xăm mà nó đã liên hệ với ý tưởng về nguồn gốc đời sống . sự sùng bái hang động hay động phủ được phổ biến nhất trong lớp bình dân Cận Đông và phía Đông Địa Trung Hải . Chỉ cần nhắc al5i rằng trong tôn giáo Mithra Thần Mặt Trời của người Ba Tư ( Perse ) ý niệm phức thể về động phủ thần linh đóng vai trò trọng ýêu . Vị Thần đó đã giáng sinh trong một hang đá và sự thờ cúng đuợc cử hành trong hang thâm nghiêm . Tôn giáo ấy đã hứ hẹn cho tín đồ một đời sống vĩnh cửu ‘’ . (Trích dịch ‘’Việt Nam Ca Trích dịch ‘’ Việt Nam carrefour des peuples et des eivilistions’’ của Olov Janse’ tr 1953 France Asie )

Chúng tôi biểu đồng tình với giáo sư Olov Janse’ về việc liên hệ giữ hình ảnh cổ mộ ở Bắc ninh và ở các miền lân cận với tín ngưỡng Động trời hay Hang động hoặc Động phủ và của nhân lọai da vàng Phúc Lộc thọ .

Hơn thế nữa chữ Thọ hiện ra trong những đề tài thường hay được trình bày trong tranh ảnh bình dân của chúng ta và trong những đề tài trang trí . Nó được tưởng tượng bằng hình ảnh một ông già tuổi tác râu tóc bạc phơ , mặt mày nở nang hay là giản dị hơn bằng những trái đào xinh đẹp màu xanh hồng ‘’

Như thế đủ thấy Thần têin trong con mắt nhân dân Việt Nam tự cổ lai là tượng trưng cho sự sống lâu , đời sống vĩnh cửu . Sự sống là một thực tại tối cao trong tư tưởng nhân dân Việt Nam xưa nay , và traong cả tư tưởng của tất cả nhân dân Á Châu thuộc mô thức văn hóa tháo mộc ( civilisation vegetale ) . Họ tin vào sự sống bất tuỵêt , sự sống vĩnh cữu ‘’ Sống gửi thác về ‘’ , về là về cái ‘’ Nhà Mồ ‘’ vậy !

Sống mỗi người một nhà

Già mỗi người một mồ

Nhà với mồ chỉ là một sự thay đổi chổ ở , hai giai đọan của một lịch trình biến hóa của một thực tại , linh động màu nhiệm là sự sống duy nhất . Ở giai đọan thể xác trên đời này là một hình thức sống , đến khi chết đi sự sống đi sang một giai đọan khác , tiếp tục ở một hình thức khác .

Chết là thể xác , còn là tinh anh .

( Kiều – Nguyễn Du )

Do dấy mà nông dân Việt Nam có tín ngưỡng về mồ mã , nơi cư trú của linh hồn tổ tiên , thường vãng lai môi giới cho hai thế giới , thế giớisiêu hình với thế giới hữu hình , thế giới bên kia với thế giới bên àny , cho nên tất cả món ăn trên đời này không đủ nuôi sự sống lâu dài mà chúng at tin tưởng :

Sống về mồ về mả

Chẳng ai sống về cả bát cơm .

Tuy bát cơm đối với nông dân Việt Nam trải qua các thời đại vẫn là một vật hết sức trọng yếu lớn lao ! Nhưng nó cũng không thỏa mãn được tất cả khát vọng về sự sống . Bởi tếh mà xưa nay ở xã hội Việt Nam có cái tục làm cho con mắt phương tây kinh ngạc là cái tục xây nhà mồ hay sinh phần cho con người thân yêu còn đang sống , sắm sửa áo quan hay cỗ thọ cho cha mẹ già . Cả đến nhà vua , trước khi lên ngôi , việc đầu tiên là xây cất lăng tẩm , chổ ở cuối cùng lý tưởng của mình . Xem lăng tẩm của một nàh vua , có thể đóan biết khí phách , tâm hồn của ông ta lúc còn tại vị .

Nhà lịch sử tôn giáo giải thích cái tín ngưỡng vào thực tại sống của nhân dân nông nghiệp như sau :

‘’ Nông nghiệp phát lộ một cách bi kịch hơn , cái bí quyết của thảo mộc hồi sinh . Trong nghi lễ và kỹ thậut nông nghiệp , con người can thệip trực tiếp , sự sống thảo mộc và sự thiêng liêng của thực vật sinh trưởng đối với con người không còn là ở ngòai . Nó tham gia vào khi trồng xới , khi cầu khẩn . Đối với người sơ khai , nông nghiệp cũng như tất cả họat động căn bản khác không phải chỉ là một kỹ thuật phàm tục . Có quan hệ với sự sống và theo đuổi sự nảy nở bồng bột của sự sống ấy , hiện tại trong những mầm hạt , những luống cày , trong trời mưa và trong thần linh sinh thực nông nghiệp , trước hết là một nghi lễ .

Chúng ta trước tiên phải chú ý đến sự quan trọng của vai trò thời tiết nhịp điệ bốn mùa , đối với kinh nghiệm tôn giáo của các xã hội nông nghiệp . Nhà nông không phải chỉ tham gia vào phạm vi thiêng liêng có tính cách ‘’ không gian ‘’- hòn đất màu mỡ , động lực trong hạt giống , trong nụ hoa – nhưng công việc của nó được hợp hó và chỉ huy bởi cả một bộ phận thời gian , bởi cả một vòng thời tiết . Sự liên kết những xã hội nông nghiệp . Nhịp điệu vũ trụ bấy giờ xác định hệ thống của chúng ta và tăng thêm hiệu lực . Một quan niệm lạc quan về đời sống bắt đầu biểu lộ sau một sự thay đổi tạm thời trong thái độ hiện hữu ; mùa đông không bao giờ vĩnh viễn vì nó được kế tiếp bằng ảc một sự hồi sinh tòan thể của thiên nhiên , một biểu hiện các trạng thái mới và vô hạn của sự sống , không có gì chết hẳn , thực chết , tất cả quy hồi vào nguyên liệu khởi thủy và yên chờ một mùa xuân mới ‘’ . ( trích dịch ‘’ Traite’ des religions – Miecca Eliade – Payot Paris , P 285 ).

Có lẽ vì thế mà ở khu vực văn hóa Á Đông , người ta đã quan niệm sự sống là thực tại tuyệt đối như Kinh Dịch bên Trung Hoa viết : ‘’ Cái đức vô hạn của vũ trụ là sự sống . ( Thiên địa chi đại đức viết sinh ) . Và ở kinh Upanishad bên Ấn độ viết : ‘’ Sự sống thì vô biên ‘’ ( Live is immense ) . Hay là ‘’ hãy tưởng niệm về ta là sự sống , sự sống thì vĩnh cửu và vĩnh cửu là sự sống ‘’ ( Meditate on me as life and intelligence . Life is Prana , Pranna is life , life is immortality and immortality is life – Self knowledge by Swami Abhedanada – Vedanta Society Calcutta .)

Bởi vì sự sống tự thân nó vĩnh cửu , không hủy diệt nó không đổi thay . chúng ta không có thể nhìn tấhy sự sống từ một sự sống thấp kém nảy nở lên . Sự sống ở trừu tượng thì luôn luôn y nhiên dù biểu hiện hay không biểu hiện ra ngòai . Sự biểu hiện có thể biến đổi nhưng sinh lực thì đồng nhất và bất biến . Khi nào chúng ta không thấy ở đâu có sự sống biểu hiện ra ngòai thì chúng ta gọi là chết . Ở đâu có sống thì không có chết . Người ta có thể nói được rằng , một đứa trẻ mới đẻ , một đứa trẻ nảy nở , nhưng sự sống của đứa trẻ thì không phải là vật nảy nở , trưởng thành . Nếu nó đã là vật đẻ ra , và nảy nở lên thì nó sẽ phải biến đổi và hủy diệt . Nhưng sinh lực , nguồn sống sinh linh là vật liên tục không có đẻ ra , suy đồi và hủy diệt . tất cả những trạng thái ấy đều là những sự biểu hiện của sinh lực bất tuyệt . Vì thế mà Trần Thái Tôn viết :

‘’ Đã phản bội với cái không có sinh , không có hóa ; tức là sinh lực tự thân , thì mãi mãi là có sinh có hóa . Không có sinh hóa thì không hóa không sinh . Có hóa sinh cho nên có sinh hóa ‘’ .

‘’ Ký bội vô sinh vô hóa , vĩnh vi hữu hóa hữu sinh . Vô sinh hóa tắc vô sinh , hữu hóa cố hữu sinh hữu hóa ‘’ ( Khoá Hư )

Nhưng để mô tả hay diễn đạt cái thực tại sống tối cao linh động ấy , nhân dân nông nghiệp của văn hóa thảo mộc không bắt đầu bằng suy luận khái niệm mà bằng những thái độ sống cảm thông như thái độ trai gái Yên bái hàng năm vào hang động Thẩm Lệ để khai xuân hưởng ứng hay khích động vào nhịp điệu sinh lực của tạo vật , hay là như trai gái Bắc Ninh hàng năm kéo nhau lên sườn đồi để xướng họa tập thể trong các hội xuân . Hơn nữa thì hàng năm nhân dân già trẻ trẩy hội hành hương vào động phủ như động Hương Tích , như phủ Giầy để chiêm ngưỡng cảnh thiên nhiên thanh tĩnh cao siêuhay u huyền để cảm thông với nguồn sống linh động vĩnh cửu siêu nhiên do thần tiên đại diện , làm trung gian giữa hai thế giới trần thế với thiên đường , tương đối với tuyệt đối đau khổ với cực lạc .

Nhà bác học Alfred Meynard viết trong Revue Indochinoise tháng 5 năm 1928 về các Hội Hành hương Việt Nam ở Bắc Việt xưa kia , có kết luận :

‘’ Tôi cho rằng cái điều mà mâu thuẫn giữa phương Đông và phương Tây mà hiện nay người ta đang thắc mắc , chẳng phải là một vấn đề phức tạp chi lắm , như người ta đã tưởng . Nó qui về có một điểm là người phương Đông đã đem cái vô hình xuống cuộc đời hằng ngày của họ . Họ sống với thế giới huyền bí , nhờ có những cái gì họ tưởng đã thấy được , trái lại người âu tây sống bên lề cái vô hình , không thân mật với vô hình , phủ nhận nó nữa vì không biết đến có nó . hay là họ bị xô đẩy vào nó mà không nhìn .

‘’ Cái sự mâu thuẫn ấy ai là người biết nhìn với con mắt thệin cảm chứ không phải thái độ nhân nhượng của kẻ tự ý đi đày biệt xứ , thì có thể nhận thấy hàng ngày ở tại cái gì mà chúng ta miệt thị cho là những mê tín Việt Nam . Chúng ta làm như là trong tất cả thế giới và đối với tất cả tín ngưỡng , những điều mê tín tối sơ không phải là cách tương đối mô tả về cái chân lý ngòai giới hạn người thường .

‘’ Ở dân Việt Nam tục lệ tín ngưỡng đã pha trộn và hợp hóa Thần bí tâm linh của Phật giáo với chủ nghĩa ma thuật của Lão giáo vào tín ngưỡng nguyên thủy một phần họat động và tư tưởng đã dành cho phương diện vô hình của thiên nhiên . Đời sống hàng nàgy của họ đã kết cầu bằng những đề tài huyền bí làm đề tài chính thức . Vào dịp mùa xuân , có rất nhiều hội hè tượng trưng cho quyền năng thần linh hành động ở thế giới . và mạc dầu cách thức của họ đối với chúng ta có vẻ lạc hậu mấy đi nữa , cách thức ấy cũng bảo tồn những nghi lễ mà chúng ta thấy có sự đồng nhất về chủ nghĩa bí truyền của tất cả những sự sùng bái . Chẳng hạn nói đến nghi lễ dâm dục của một số bộ lạc thái , trà trộn linh thiêng với tình dục nam nữ để mô tả nhịp điệu hồi xuân , suốt ba tháng đầu năm của dân Việt nam cũng có rất nhiều nghi lễ , trong ấy người ta thông cảm với thần linh hay kéo thần linh xuống một lúc gần với người , cùng với người san sẻ những nổi lo âu hay hy vọng .’’

Đấy là cái tinh thần nối hiện thực với siêu nhiên qua hang động núi non vì thiên nhiên ở nhỡn giới phương Đông không phải quyền năng vật chất mà là nhịp cầu bắc qua hai thế giới vô hình . Bởi thế mà hang động không những được nhân dân sùng bái đến hành hương mà còn là đề tài cho văn nghệ sĩ đến tìm nguồn cảm hứng siêu việt . hang động vốn âm u , nơi cư trú của Thần tiên bất tử , thế giới ‘’ tàng ư mật ‘’ ( ẩn trong kín đáo ) . Ỏ đây đạo sĩ được truyền đạo , cho nên đề tài truyền thụ quan hệ mật thiết với những hang động . ĐỘNG có nghĩa huyền bí , thâm sâu , siêu nhiên . chữ ĐỘNG cho người ta liên tưởng đến những nghĩa xa hơn , như ĐỘNG phòng ở bản thân là nơi mặc niệm trầm tư . Theo sách Thần bí học bên Tàu : Quảng Bí cấp , mục nói về ĐỘNG ĐÌNH rằng : ở trời là không , ở núi là động , ở người là phòng , chổ rỗng trong lòng núi là động đình ( Động đình cũng tên Động Đình Hồ , một trong số 36 động thiên có liên quan đến thần thọai về giống Việt ) Chỗ ‘’ không ở đỉnh đầu người ta là Độn phòng . thần thoại Lạc long quân và âu Cơ Ngũ Lĩnh – Triệu Việt Vương . Vậy Động hay Động thiên là thế giới biệt lập , ở trong cái động thì cửa vào rất nhỏ để tượng trưng cho một cõi Thần thạoi ma thuật . đấy là cõi thiên nhiên hàon tàon một vũ trụ tượng trưng giả tạo . sách ‘’ Ô Châu Cận Lục ‘’ của Dương văn An ( 1553 ) , tả về hang động đến Chấn Linh :

‘’ Đền ở huyện Chấn linh , châu Bố Chính . Lưng giáp núi biếc , mặt trông xuống duyền xanh . Ở dưới thì nước biếc như màu chàm , ở trên thì non xanh như tấm tảhm . Động có cửa vào , cử ahẹp chỉ vừa lọt một chiếc thuềyn con . càng vào trong càng tấhy rộng . Những du khách đi trên thuyền đến vãn cảnh trước hết phải thanh tâm trai giới thì tự khắc thấy nước lặng sóng êm , gío vào , nghe gió thổi như đàn , động vang tựa sáo . Đi ước hơn trăm bước bỗng mở ra một khỏang trống , trông thấy trời đất bùng sáng , chói lọi nhật quang .

‘’ Cỏ đẹp mây êm sạch lòng trần tục , hoa cười đón khách ,chim hót chào người , cảnh trí riêng biệt một bầu trời . Biệt nhất kiến khôn thế giới ‘’

‘’ Trong động có tảng đá nhẵn nhụi , có bàn cờ bằng đá . Vách núi xung quanh như gọt , ngắm những vật nhỏ lấm tấm , chổ như đồng tiền , chỗ như sợi tóc , chổ tựa hình người , chổ thì hình như viên ngọc . nước biếc như mắt Sư , núi xanh như tóc Phật , châm chim in mặt cá , cá lượn trong hang , dầu phong cảnh Đào Nguyên cũng không hơn thế nữa .

‘’ Những thi nhân trong hạt đề thơ ngâm vịnh từ lâu đời , người sau tìm kiếm các bài chỉ còn lờ mờ như nét khuyên dấu chấm .

‘’ Tục truyền trong động có chiếc hộp vàng chìm sâu đáy nước . Có một người thuật sĩ muốn đi tìm , khi đến cửa Động thổ nhân cho biết sóng gió không êm chớ nên mạo hiểm , song y cậy mình cao tay phù phép , cứ chở thuyền vô . trong chốc lát , bỗng nghe có tiếng còi , tiếng trống ầm ầm , cả bọn nhìn nhau sợ hãi phải quay thuyền ra . Ấy đại khái linh dị như thế ! Thơ cổ có câu :

Động môn vô tỏa thược

Tục khách bất tằng lai



Cửa hanh không đóng khóa

Khách tục chớ đi về



( Ô Châu Cận Lục bản dịch Văn Hóa Á Châu )

Trên đây hang động đã làm nguồn cảm hứng nghệ thuật cho văn sĩ Việt Nam dùng mỹ cảm kinh nghiệm để thăng hoa tình cảm cá nhân vào thế giới siêu hình Bồng lai , Tiên cảnh , bất tử trường sinh vậy . Chúng ta chỉ cần đọc al5i những truyện Thần thọai hết sức điển hình lưu truyền trong giới trí thức Việt Nam qua các thời đại như truyện tình duyên giữa chàng Từ Thức với nàng Giáng Tiên , mà sân khấu bắt đầu từ hạt Tiên Du , Bắc Ninh , nơi có nhiều cổ mộ , hay là truyện Thần thọai Xã Đa Hòa , giáp giới Bắc ninh , về tình duyên giữa chàng Chử Đồ Tử với nàng công chúa Tiên Dung Mỵ Nương trên bãi Tự Nhiên , truyện rất phổ thông trong giới bình dân . Chử Đồng tử được tôn thờ như vị Đạo tổ bậc nhất trong hàng ‘’ Tứ Bất Tử ‘’ của hệ thống tín ngưỡng Thần tiên Việt nam . nay chỉ kể lại câu chuệyn Từ Thức với Giáng Tiên trực tiếp liên quan đến tín ngưỡng Động thiên do cổ mộ ở miền Bắc Ninh hạt Tiên du , Phật tích đã khởi hứng ra .

Về triều lý bấy giờ ở trước cửa chùa Vạn phúc ( Phật tích ) có một cây mẫu đơn , hoa ấy nguyên là danh hoa , chắc là phải lấy giống tự đất Giang Nam bên tàu mà đem về . cái cây hoa ấy không những là cảnh nhà Phật mà chính là cảnh nhà vua . cái người phải đương cái trách nhiệm giữ gìn cây hoa ấy , là thầy trò Ô Chuyết Chuyết Thiền Sư . độc giả phải biết rằng chùa này có thế lực lắm , chẳng khác gì viên thị vệ , mà cây hoa mẫu đơn ở chùa này cũng là một cây Thần thánh bất khả xâm phạm vậy . Một hôm nhân có cơ hội chùa , nữ sĩ du quan đông lắm . Thầy Từ Thức bấy giờ cai trị huyện Tiên Du , vì phận sự địa phương quan phải lên coi sóc . Chợt thấy một chú tiểu thiền cầm dây trói một thiếu nữ vừa xấp xỉ xuân xanh , nhan sắc tuyệt trần .

Người thiếu nữ ấy khóc lóc kêu van , trông màu hoa lệ đã đầm đìa giọt mưa mà chú tiểu thiền vẫn không tha thứ , cứ dang ta trói chặt . thầy Từ Thức phải chạy lại hỏi , thì ra người thiều nữ ấy vì yêu hoa , bẻ cành mẫu đơn , dắt lên mái đầu , ngờ đâu lại pạhm về tội trọng cấm .

‘’ Thầy Từ Thức ta bấy giờ không biết nghĩ thế nào , phép vua cũng phải trọng , mà kẻ đào thơ liễu yếu cũng nên thương . Nhân cởi ngay cái áo cẩm bào mình đang mặc ra tặng cho chú tiểu thiền khẩn khỏan với chú để tha tội cho người thiếu nữ , người thiếu nữ ấy mời được khỏi tội mà ra về .

‘’ Thầy Từ Thức bấy giờ , âu cũng là thấy kẻ trầm luân mà ra tay tế độ đấy thôi , chứ cũng không phải là vì ‘’ bóng hồng nhác thấy nẻo xa ‘’ mà có ý mặn mà với xuân lan thu cúc chi cả . Nhưng nghĩ cho kỹ ra , Thầy Từ Thức đối với người thiếu nữ không phải là tình dâm , nhưng cũng là cái tình hiệp , người thiếu nữ đối với thầy Từ Thức không phải là cái tình ái , nhưng cũng là cái tình duyên ‘’

Trên đây là thuật theo lời của Tùng vân trong Nam Phong , số 91 và Tùng vân viết tiếp :

‘’ Chao ôi ! người thiếu nữ đó là ai ? Tức là Giáng tiên ở trên Ngọc quàn Huyền đổ xuống chơi hạ giới đó ! Giáng tiên , Giáng tiên ! Nước đời hạ giới có lạ lùng khắt khe không ? Cũng phải nềm mùi hạ giới tí chứ ! Giáng tiên ! Nhân vật hạ giới có hào hoa phong nhã không ? Cũng phải chung tình với hạ giới tí chứ ! Huyện này thành tên là huyện Tiên Du âu cũng là vì sự đó ‘’ ( Nam Phong , số 91 , Tùng vân )

Sách Truyền Kì Mạn Lục của Nguyễn Dữ , sách Hội Chân Biên của Thanh Hòa Tử ( 1847 ) và sách Đại Nam Nhất Thống Chí mục nói về Bích đào động hay Từ Thức động đều kể tiếp câu chuyện trên đây . Vì ở đây chúng tôi chú ý vào vấn đề Động thiên ( Grotte – ciel ) liên hệ với cổ mộ và cho mỹ cảm nghệ thuật , nên tôi xin thuật tiếp theo ‘’ Đại Nam Nhất Thống Chí ‘’ như sau :

‘’ Rồi cách đấy không bao lâu , Từ Thức cũng treo ấn từ quan trở về tìm thú tiêu dao phong cảnh Tông Sơn ( Thanh Hóa ) và nơi sở thích từ xưa .

‘’ Một hôm Từ Thức xa trông trên mặt cửa bể Thần phù có một đám tường vân năm sắc , kết tụ như hình hoa sen , chàng lấy làm lạ , chở thuyền đền nơi là trái núi rất xinh . Từ Thức lần mò trèo lên núi , trải qua tầng đứng sững , cao vót nghìn tầm , tự nghĩ nếu mình không có cánh bay thì sao lại trèo lên đây được ? Nhân đề bài thơ như sau :



Thiên chương bích thụ quải triều đôn ,

Hoa thảo nghinh nhân nhập động môn .

Bàng giản dĩ vô tăng thái dược,

Lâm lưu thặng hữu khách tầm nguyên .

Lữ du ti vị cầm tam lộng ,

Điếu đỉnh sinh nhai tửu tất tôn.

Nghi hướng Vũ Lăng ngư phủ vấn,

Tiền tài viễn cận thực đáo đôn .



Tạm dịch



Đầu àcnh biến ảo dáng trời phô ,

Hoa động vui mừng đón khách vô .

Cạnh suối dâu là người hái thuốc ,

Tìm nguồn bờ nước gã bơi đò .

Mùi dời đất khách cầm ba khúc,

Đủng đỉnh thuyền câu rượu một vò .

Ướm hỏi Vũ Lăng chàng đánh cá ,

Đào nguyên đâu có cách chừng mô ?



‘’ Từ Thức đề xong , một mình vơ vẩn ngắm quanh , chợt thấy vách đá nứt ra một lỗ tròn , có thể vừa người chui lọt . Chàng lần chui vào trong cửa hang đó lại đóng bịt ngay lại .

Từ Thức càng hỏang hốt lần đi về phía trước ước chừng vài dặm đường thì thấy tòan là vách đá cheo leo , tít trên tầng trời cao thẳm , mà tự mình vẫn ung dung lần bước đi không tịnh chút gì trở ngại . chàng at đi mãi lên tới đỉnh núi thấy là một nơi đẹp đẽ phong quang , lâu đài bát ngát , rõ ràng khác hẳn trần gian . Vừa hay khi ấy chợt có hai thanh y đồng nữ chạy lại đón chào Từ Thức mà nói : Phu nhân cho triệu ông vào ‘’. Nói đọan hai người đi trước và dẫn đường mời họ Từ cùng đi . Từ Thức theo vào tới trong thì thấy có một tiên nga đương ngồi dựa trên giường thất bảo , bên cạnh đặt một cái ghế bằng gỗ đàn hương . Tiên Nga thấy Từ Thức vào , trỏ bảo cho ngồi xuống ghế đó mà cất giọng khoan thai mà nói :

- Đây là cái hang thứ 6 trong 36 động của Phù Lai .

Ta là Ngụy phu nhân Địa Tiên ở Nam Nhạc , thấy khanh là người có cao nghĩa , cứu người trong lúc nguy khốn , nên ta cho mời tới dấy …

Nói tới đó liền truyền thị nữ gọi một cô con gái ra . Từ Thức đưa mắt nhác trông thì ra cô con gái đó chính là người con gái đánh gãy hoa mẫu đơn mà mình đã cởi áo bào chuộc ra khi trước . Tiên Nga trỏ vào cô gái và nói tiếp :

- Đây là Giáng Hương , con gái của ta , bữa trước mắc nạn trong lúc xem hoa , được khanh cứu giúp , ơn ấy chưa quên và nay mốn kết nhân duyên để đền nghĩa cũ …

Đọan không đợi Từ Thức trả lời , lập tức làm lễ thành hôn ngay đêm đó . Từ Thức ở trong động đó được đúng một năm thì xin phép trở về nhà và hẹn sau sẽ lại tới . tiên Nga bèn cấp cho một cỗ xe cẩm vân , rồi Giáng Hương viết một bức thư trao cho Từ Thức và dặn rằng :

- Ngày sau trông thấy vật này , chớ quên tình cũ …

Đọan Từ Thức lên xe , chỉ trông chốc lát đã tới ngay nhà . bấy giờ trông cảnh vật khác hẳn ngày xưa , hỏi ra thì đã hơn 80 năm xa vắng , nay mới tới nơi đây . Từ Thức đang ngẩn ngơ muốn lại lên xe đi ngay , thì xe đã hóa con chim loan mà bay đi mất . Chàng mở bức thư ra xem thì thấy trong có mấy câu :

Kết loan lữ ư vân trung , tiền duyên dĩ đọan ,

Phỏng tiên san ư hải thượng , hậu hội vô nhân .

Nghĩa là :

Bạn loan kết ở trong mây , duyên xưa đà dứt ,

Hỏi núi tiên trên mặt biển , dịp sau không còn .

Từ Thức từ đó bỏ nhà đi thẳng vào núi Hòang Sơn , rồi sau không hiểu còn mất ra sao ‘’

Đại nam Nhất Thống Chí – tỉnh Thanh Hóa tập Hạ .

Câu chuyện mộng tưởng trên đây cũng như tất cả những văn thơ khác như ‘’ Mai Đình Mộng ký ‘’ của Nguyễn Huy Hổ , hay ‘’Bích Câu Kỳ Ngộ ‘’ đều do Hang Động khởi hứng để đáp ứng nhu cầu siêu hình của dân tộc . Ở đấy người ta mô tả một thế giới siêu nhiên đằng sau tếh giới thiên nhiên hiện thực và sự tương quan giữa hai thế giới ấy với nhau bằng một thứ cửa cực tế vi ( porte e’troite ) ma thuật ( magique ) : ‘’ động môn vô tỏa thực , tục khách bất tằng lai ‘’ Ma thuật vi hình tướng biến ảo vô cùng , ẩn hiện bất thình lình , hốt nhiên tưởng hết lại còn :

Nào ngờ tiêu lĩnh trời xây

Lối vào đã vén mây trông rõ

Vạn trạng thiên hình vô số

Vẫn hãy còn giấc ngũ lơ mơ

( Thám hoa Vũ Phạm Hàm )

Qua cái cửa hang nhỏ hẹp , người ta lọt vào một chỗ như thế , như là một cõi mộng ảo ,một thế giới tàng ẩn , một ‘’ Biệt nhất kiền khôn thế giới , một’’ Động thiên’’ của Thần tiên hội họp , làm môi giới cho Thượng Đế tuyệt đối với nhân lọai tương đối , cho nên Ấn Độ với Trung Hoa cổ xưa , có hạng người ẩn sĩ đến đấy tu l;uyện thuốc trường sinh bất tử như Ngụy Bá Dương ( 121 sau T.C ) nói trong Tham đồng Khế : Tu đan giả pháp Thiện Tượng đại , phản thân nhi cầu tắc thân trung tự hữu nhất hồ thiên : người luyện đan hay thuốc trường sinh bắt chước Trời mà phỏng theo hình Đất . Y quay vào bản thân mà tìm lấy thi ở chính trong thâm âtm tự nhiên có một cái trời hình như cái bầu ‘’

Nhưng ở Việt Nam , giới sĩ phu trí thức , sau khi đã làm tròn phận sự với quốc gia xã hội ở đời , mới tìm vào hang động để kiếm cảm hứng hay mỹ cảm kinh nghiệm cho văn thơ nghệ thuật . Và bình dân Việt Nam cũng đến đấy hành hương , chiêm ngưỡng ngõ hầu thỏa mãn cho khát vọng siêu hình .

Phật Quan Âm Thiên tạo một tòa ,

Bốn bể như gấm như hoa ,

Đố ai lấy nhân công mà vẽ được .

( Vũ Phạm hàm – Hương Sơn phong cảnh )

Vậy cứ theo luận lý lọai suy ( raisonnement par analogie ) , người ta từ Hang động liên tưởng đến cái Bầu , từ Động Thiên người ta nghĩ đến Băng Hồ , đến Băng tâm như câu thơ trứ danh của Vương Xương Linh đời Đường :

‘’ Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ ‘’

Cái tâm trong suốt như là băng tuyết trong cái bầu ngọc .

Nghĩa là từ cảnh thiên nhiên của hang núi hướng lên thế giới siêu nhiên của tâm linh vậy . Đấy là cái luận điệu thấy trong tinh thần cố hữu sĩ phu Việt nam xưa , cho nên ông Rolf Stein , trường Viễn đông Bác cổ ( E.F.E.O) có viết trong tập kỷ yếu t. XLII 1942 , mục Bồn cảnh ở á Đông ( jardins en miniature dême Orient ) .

Trần Nguyên đán rút về ở ẩn năm 1385 trong động Thanh hư tại núi Côn Sơn ( Hải Dương ) . Dưới chân núi ấy có hồ Long Mục Tĩnh . trên núi nhà sư Pháp Loa có xây ngôi nhà , một tên là Hồ Thiên , một tên là Chân lạc . Trai gái đến hành hương mỗi đầu năm . Ứng với cảnh ấy , nơi hưu trí của ông , Trần Nguyên Đán tự đặt tên hệiu là Băng Hồ , danh từ theo Gaspardonne đã nhận định làm cho người ta đồng thời cũng liên tưởng đến cảnh ấy và câu thơ trứ danh của Vương Xương linh đời đường – Những thuộc tính dặc biệt của Hồ Thiên ( Ciel – Grotte ) : một mặt là núi , một mặt là nứơc , ở hình thức cái hồ nước biểu thị như một cái giếng . Nhưng ở đây đề tài gặp gỡ giữa người và tiên – gặp gỡ tình duyên – mất vẻ đạo giáo và văn nghệ để biểu lộ phương diện xã hội của nó . Hồ Thiên với tất cả đặc tính của một Địa Linh ( Sơn Thủy ) là nơi hẹn hò mùa xuân của trai gái . Ngừơi ta biết kể từ Granet sự trọng đại của những hội hè đầu xụân , trai gái xướng họa và giao tình ở nước Tàu cổ xưa . Nhưng người ta cũng không nên quên rằng những phong tục ấy vẫn luôn luôn lưu hành và linh động ở trên đất Việt Nam .

Trần Nguyên Đán rút lui về Thanh hư động . Tên hiệu là Băng hồ không phải chỉ ngụ ý văn chương của một bài thơ trứ danh . danh từ ấy còn tất cả giá tr5 nguyên thủy của nó . Chúng ta biết được rằng Bầu Hồ có thể là những thế giới bầu trời hệt như một số hang động là những tầng trời , thế giới Thiên Đường , Động Thiên , trời động . vậy mà tên hiệu Thanh Hư đặt cho cái động ở cạnh đấy lại chính là tên hiệu của cái Động Thiên đệ nhật nói trong sách ‘’ Vô Thượng Bí Yếu ‘’ trong ‘’ Dao Tạng ‘’ . Vậy thì Băng Hồ là một thế giới thanh khiết như là cảnh giới Thần tiên thứ nhất . Nhưng cái lọai thanh khiết ấy là thế nào ? Một bài thơ của Vũ Đế nhà Lương ‘’ Phương chư khúc ‘’ liên hệ sự thanh khiết đặc biệt của hư không , Thanh hư với tấm gương Phương Chư dùng để hứng nước ‘’ minh thủy ‘’ của mặt trăng , tức là sương . Đồng thanh tương ứng . Gương Phương Chư thuộc về âm tính như Thủy và hấp dẫn nước của mặt trăng cũng thuộc âm , ví như gương Tọai thuộc tính dương , hấp dẫn lửa của mặt trời cũng thuộc dương . Ngòai ra gương Phương Chư được quan niệm như cái bồn trong Thuyết Văn . Cái bồn nước chứa đựng bồn cảnh được ngắm và tu luyện dưới ánh trăng và người ta hứng lấy sương vào buổi mặt trời mọc . Mặt nước ở một cảnh hòan hảo hình hang động lại được đồng hóa với một cái giếng . cái giếng là một tấm gương . động thanh hư , thanh khiết đặc biệt của gương Phương chư lại được liên hệ với một vũng nước gọi là giếng . Long Mục Tỉnh . Nhưng cái thanh hư danh tiếng ấy trỏ vào cảnh giới Thần tiên thứ nhất lại cũng là danh từ đặc biệt trỏ trạng thái tinh thần của sự định niệm trầm tư hòan tòan . Cái trạng thái tinh thần hoan hỉ cùng tột , trong một thế giới hồn nhiên được phô diễn trong nghệ thuật Á đông và trong những mỹ dụ của các nhà Thần bí học bằng hình ảnh vầng trăng tròn phản chiếu vào mặt nước phẳng lặng .

Từ địa danh và tiên cảnh , thế giới của Thần tiên bất tử , đến phương pháp ma thuật tiền hóa học và đến mạc niệm Thần bí , tất cả đều thu về một tòan bộ rất hệ thống mạch lạc , những đề tài , hình ảnh , liên tưởng hệt như thống cảnh Núi Non bộ , Giả Sơn , Núi giả ( trang 59-60 Hà Nội , 1943 )



KẾT LUẬN



Trẹn đây là căn cứ vào hai thực tiễn cổ học là Trống đồng Đông Sơn với Mộ Cổ Bắc ninh , là những thực kiện lịch sử thuộc thời kỳ trước khi Việt Nam thành quận huyện của Tần , Hán bên tàu . hai thực kiện ấy đã biểu lộ hai khuynh hướng hiện thực tư tưởng chính yếu của dân tộc , khuynh hướng hiện thực và khuynh hướng siêu nhiên . Trống Đồng , dấu hiệu của quyền thế , từ một công cụ nghệ thuật biến tàhnh một tượng trưng cho mệnh lệnh và ý chí thần bí linh thiêng của đòan thể , của quốc gia để duy trì trật tự luân thường của xã hội . Hiếu và Trung . hiếu để làm người , bắt đầu từ con người đối với cha mẹ , đầu mối của đạo nhân ái , yêu người . Trung để làm công dân trong một nước đối với Thủ lĩnh quốc gia , đầu mối đạo tín nghĩa tương quan giữa người với người trong vòng trật tự chính đáng . đấy là khuynh hướng luân lý nhân sinh thực tiễn để bảo vệ sự sống còn của đòan thể trong điều kiện thời gian và không gian , tức là tinh thần Quốc gia Dân tộc , truyền thống Việt Nam mà chúng ta thấy biểu dương cụ thể hiển nhiên ở bản thân các vị Liệt nữ anh hùng , kể từ Hai Bà Trưng cho đến Phan Thanh Giản , suốt bốn ngàn năm hồ đứt lại nối , tưởng hết lại còn . vậy Trống Đồng đại diện cho cái tinh thần luân lý Quốc Gia Dân tộc . Nhưng cái tinh thần luân lý ấy tuy hiện thực thực tiễn , nhưng phải chăng là một hệ thống giá trị bế quan , thiển cận , công lợi duy vật ?

Xét lịch sử triết lý nhân sinh của thế giới , đại khái có hai khuynh hướng chính làm cốt cán cho tất cả các khuynh hướng khác , ấy là khuynh hướng công lợi nguyên tắc ích lợi ‘’ tối đại đa số , tối đại hạnh phúc ‘’ làm lý tưởng tiêu chuẩn . khuynh hướng tâm linh không căn cứ vào số lượng mà căn cứ vào động cơ hay dụng tâm . Môet hành vi thiện hay ác tùy theo với động cơ trong lòng thúc đẩy , động cơ tốt thì việc làm tốt , động cơ xấu thì vịêc làm xấu . Khuynh hướng công lợi ạhn chế giá trị nhân sinh vào thời gian không gian , không cho phép mở cửa cho con người vươn lên chỗ chí thệin tuyệt đối ngòai thời gian không gian . Còn khuynh hướng tâm linh không tính tóan kết quả của hành vi mà nhắm vào sự cởi mở tâm hồn vươn lên tuyệt đối siêu việt trên không gian và thời gian . Khuynh hướng trên thì duy lý , khuynh hướng dưới thì thần bí . Trong hai khuynh hướng ấy , thì tư tưởng nhân sinh Quốc gia Dân tộc Việt nam tuy thực tiễn nghĩa có tính cách công lợi vì mục đích bảo vệ sống còn của dân tộc giới hạn vào biên giới thời gian không gian nhất định , nhưng cũng có tính c1ach tâm linh huyền bí nữa cho nên mới có Đền Đồng Cổ để thờ Thần Linh Trống Đồng , tượng trưng mệnh lệnh tối thiêng liêng của Quốc gia , hàng năm quần thần đến trước đền uống máu ăn thề . Bởi thế mà hai chị em Bà Trưng tuẫn tiết , được quốc dân phụng thờ , bởi thế mà Phan Thanh Giản ‘’ sát nhân dĩ thành Nhân ‘’ ( giết cái thân thể thuộc không gian thời gian để được cái siêu hóa vào đức Nhân , tình yêu thần bí ) . Tư tưởng Quốc Gia Việt Nam đến Lý Thường kiệt có thể nói là quá khích cực đoan , mà sau khi công thành danh tọai đối với Dân Tộc còn biết tìm giá trị siêu nhiên qua thiên nhiên như văn bia Lĩnh Xứng đã ghi chép :

‘’ Nhân tri sở lạ sơn dã , thủy dã . thế đại sở truyền đạo yên danh yên . Nhược phi thác kỳ sơn nhi trứ đạo danh bất túc dĩ quí hồ ? ‘’

Nghĩa là : ‘’ Kẻ nhân trí vui la vui với núi sông . Đời đời truyền lại là danh với đạo . nếu không dựng Chùa ở trên núi này để mở đạo thì danh không đủ lấy làm quí vậy ‘’

Xem đấy đủ thấy Tinh thần Quốc Gia Dân tộc Việt Nam vốn căn ab3n tâm linh thần bí , sẵn sàng cởi mở , luôn luôn khai phóng , ngòai việc đánh đuổi xâm lăng , bảo vệ đất nứơc , nhưng cứu cánh không quên nhân nghiã .

‘’ Nhân nghĩa chi cử yếu tại an dân , điếu pạht chi sư mạc tiên khư bạo ‘’ ( Bình Ngô Đại cáo Nguyễn Trãi 1380-1442 ).

‘’ Làm việc nhân nghãi cốt để yên dân , cầm quân chinh phạt trước hết trừ phường tàn bạo .’’

Vậy tư tưởng luân lý Quốc Gia Việt Nam khác với các chủ nghiã Quốc Gia Dân tộc Âu Tây ngày nay , có tính cách kinh tế chính trị thực tế duy vật hơn là Thần bí tâm linh để tiếp nối với tinh thần nhân bản tòan diện . Huống chi bên cạnh khuynh hướng nhân sinh hiện thực ấy , đồng thời phát triển khuynh hướng thiên nhiên Thần tiên để thảo mãn nhu cầu siêu nhiên của dân tộc do Cổ mộ và Động thiên đại diện .

Động thiên , sơn thủy như trên kai đã nói về ý nghĩa triết lý Thần tiên từng ảnh hưởng thâm sâu vào hai dòng tư tưởng Việt nam , tư tưởng bình dân ở dòng Đạo Nội là một thứ Đạo giáo Dân tộc , vì nó đã nối tục sùng bái anh hùng dân tộc với sùng bái Thần tiên kiểu Lão Giáo bên Tàu .

Tháng tám giỗ Cha

Tháng Ba giỗ Mẹ .

Cha đây là Đức Thánh Trần Hưng Đạo Đại Vương , người anh hùng bậc nhất đã làm nên một kỳ tích đánh đuổi quân Nguyên , có tiếng kiêu hùng cường bạo ngược nhất thế giới bấy giờ , đi đến đâu ngọn cỏ cũng không mọc được ở đấy , mà nhân dân đã đồng hóa anh linh Ngài với nguyên lý Kiền là Phụ của vũ trụ . Còn nguyên lý Khôn là Mẫu thì do Tiên Chúa Liễu Hạnh đại diện . Đền thờ Thánh Trần ở Kiếp Bạc ngày hội vào tháng tám , mà đền thờ Chúc Liễu ở Phủ Giầy , ngày hội vào tháng ba . Nhân dân Bắc Việt đến ành hương hai nơi này như nước chảy , các triều đại đều có sắc phong Thần , coi như quốc giáo vậy .

Đấy là tinh thần quốc gia được nối tiếp với khuynh hướng tâm linh thần bí của đạo thần tiên , đã dân tộc hóa nên gọi là Đạo Nội , thờ các chư vị , những thế lực thiên nhiên thần thánh hóa .

Ngòai ngành sùng bái Thần tiên do Động thiên hay Sơn Thủy khởi hứng ở tâm hồn bình dân Việt nam , Động Thiên hay Sơn Thủy còn làm nguồn cảm hứng văn nghệ cho giới trí thức qua các thời đại , như cụ Tam Nguyên Trần Bích San thời Tự Đức đã tóat yếu vào câu thơ trứ danh .

Vân phi sơn thủy vô kỳ khí

Nghĩa là :

Văn chương không có núi và nứơc thì không có hồn khí mới lạ .

Bởi vì Sơn Thủy , hai hiện tượng thiên nhiên được nhân lọai Á đông từ cổ lại nhìn với ý nghĩa tượng trưng cho cuộc hôn nhân vũ trụ hóa của hai nguyên lý Âm Dương , Mái Trống , Nữ Nam ở bình diện vũ trụ :



Sông nước chảy , Núi mây bay

Mình ơi ! Có biết ta đây nhớ mình ! ( Tản Đà )



Nhưng Động thiên hay Sơn Thủy cũng còn là đề tài cho triết lý nghệ thuật . Núi non bộ hay núi giả mà Nguyễn Du đã khéo léo diễn tả vào bốn câu thơ êm ái tài tình cái mộng Thiên thai do hang động gợi cảm ở giới văn nghệ , tìm một đường thông giữa hai thế giới trần gian và thiên đường , hiện thực và siêu nhiên :



Lần theo núi giả đi vòng

Cuối đường có nẻo thông mới rào

Sắn tay mở khóa Động đào

Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên Thai ( Kiều )

Nhưng tục chơi núi giả ở Việt Nam bắt đầu từ triều đình nhà Tiền Lê ( Lê Đại Hành) . việt sử lược chép :

‘’ Năm Ất Dậu , hiệu Thiên Phúc năm thứ 5 ( 985 ) mùa thu , tháng bảy , ngày Đinh tỵ là ngày sinh của vua . Vua sai người đóng thuyền , ở giữa sông dùng tre làm núi , ở trên thuyền gọi là Nam Sơn . Rồi vua bày lễ đua thuyền ‘’ V.S.L. 20 a .

Nghệ thuật tiêu khiển ấy còn được phát triển ạmnh vào thời đại nhà Lý dưới triều Thái Tông . Việt Sử lược viết :

‘’ Tháng sáu lấy ngày sinh vua là tiết Thiên thánh . xây Vạn Tuế Sơn ở Long Trì có năm ngọn , ngọn ở giữa dựng bức tranh trường thọ tiên , hai bên tã hữu đều có hạc trắng , trên núi làm những hình tiên bay , chim , thú , lưng chừng núi lại có Thần long vây quần , cắm cờ , treo vàng ngọc , sai bọn phường tuồng ( linh nhi) ở trên núi thổi sáo , ca múa làm vui V.S.L II 5b .

Chúng ta biết rằng về sau này nghệ thuật núi giả vẫn được nhân dân , hoặc ở công viên , hoặc ở tư gia tiếp tục phát triển . Và cái nghệ thuật ấy do hang động hay sơn thủy hứng khởi , có ngụ ý nghĩa triết lý thâm trầm về một vũ trụ quan mà Marcel Granet trong ‘’ la Pensée Chinoise ‘’ đã tóat yếu như sau :

Toute réalité est soi totale

Tout dans I ‘’ univers est comme I .( p.341 ) nghĩa là : ‘’ tất cả thực tại tụ bản thân là tòan thể . Tất cả trong vũ trụ tựa như là vũ trụ ‘’ câu nói thực như dịch nguyên văn một bài kệ của Từ Đạo Hạnh tức Từ Lộ đời Lý ?

Tác hữu sa trần hữu , vi không nhất tướng không .

Hữu không như thủy nguyệt , vật trứ thị không không .

Phan Kế Bính dịch ra nôm trong ‘’ Nam Hải Dị Nhân ‘’ rằng :

Có thì tự mảy mảy , Không thì cả thế gian này cũng không .

Thử xem bóng nguyệt dòng sông ,

Ai hay không có , có không là gì .

Đấy là một vũ trụ quan tương đối , tất cả đều hỗ tương quan hệ với nhau mà có hay không có thật , tâm dựa vào Vật mà có , vật biến Tâm cùng biến , Tâm , Vật đều cùng có cùng không ; hổ tương quan hệ không rời nhau được vì nói Tâm là tâm chủ quan của ta , nói Vật là vật khách quan bên ngòai , cả hái đều là hai phương diện của một bản thể , một thực tại tối cao , tòan diện là ‘’ vạn vật đồng nhất thể ‘’ . Cái ‘’đồng nhất thể ‘’ấy tuyệt đối có thể là Phật tính , có thể là ‘’ Thiên mệnh chi vị tính ‘’ , có thể là ‘’ Tự nhiên ‘’ , có thể là cái ‘’ Thiên địa chi tâm ‘’ hay là cái nguồn sống sáng háo không ngừng vô hạn ‘’ Sinh sinh chi vị ‘’ v..v.. biểu hiện hai phương diện một lúc mà chúng at đứng ở trong không gian , thời gian , tùy theo quan đểim mà gọi là khách quan và chủ quan , vật và tâm , ngọai và nội , cài ‘’ non moi ‘’ và cả ‘’moi’’…

Như vậy , dòng tư tưởng do trống đồng đại diện tinh thần luân lý quốc gia dân tộc với dòng tư tưởng do cổ mộ , thiên động đại diện tinh thần sùng bái Thần tiên , cả hai ở Việt nam đã tiến triển đồng đều ở giới bình dân , cũng như ở giới trí thức , để cùng chảy vào vũ trụ quan Tâm linh là cơ sở chung cho ba hệ thống tư tưởng chính yếu á đông sớm du nhập vào Giao Châu để kết tinh ra tinh thần Tam Giáo thời nhà Lý , khi dân tộc bắt đầu giành lại chủ quyền của một quốc gia dân tộc độc lập tự cường , tự ý thức mình là một cá thể có thật .

Tư tưởng nhân lọai xưa nay xoay quanh hai cái trục Nhân sinh và Vũ Trụ , Người và Trời , như một học giả tàu đời Tống đã nói : ‘’ Học bất tế thiên nhân bất khả dĩ vị chi học ‘’ . Học không quan hệ Trời Người thì không thể gọi được là học . vấn đề Trới Người là vấn đề căn bản nòng cốt cho nhân lọai Đông tây suy tưởng . Từ khi hãy còn ‘’ mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm ‘’ ( Ôn Như Hầu ) con người đã nghe thấy hai tiếng gọi , tiếng gọi của xã hội , tiếng gọi của siêu nhiên , tiếng gọi nhập thế và tiếng gọi xuất thế , bổn phận và tự do . Đấy là hai đầu mối cho tất cả các vấn đề suy tưởng khác , nào vấn đề tri , ta biết được gì ? Nào vấn đề hành , ta phải làm thế nào / Đấy cũng là vấn đề khoa học và đạo đức , vật chất và tinh thần , đời và đạo ..v.v..

Hai đầu mối , dân tộc Việt nam đã sớm phát triển từ vô ý thức đến ý thức thành hai chiều hướng tư tưởng , hai dòng , dòng quốc gia dân tộc và dòng thiên nhiên Thần tiên , sinh tồn hiện thực và nghệ thuật . cả hai đều từ trong nguồn Thần bí xuất hiện , vẫn giữ bản chất chung nhất nguyên thần bí tâm linh trên lịch trình tiến háo trước khi thâu hóa ngọai lai .



C. SỰ DUNG HÒA CỦA NỀN VĂN HÓA VIỆT

Lịch sử Bách Việt và định mệnh dân tộc Việt nàgy nay cũng song song với tư tưởng Nam phương ( của nước Tàu ngày nay ) .Với Thần Đạo Việt Nam thật đã rõ ràng , vấn đề tín ngưỡng chính thống , cũng như văn hóa Việt của chúng ta bắt đầu có nguồn mạch tư tưởng Vạn vật ư linh , vạn vật hữu thần , cho đến chuyện thần tiên ở non Bồng nước Nhược hay trong t6am thức , thần thức con người Việt rất hài hòa với hai nguồn văn hóa đến từ Trung Ấn cùng với quan niệm thiên lý tại nhơn tâm , thông tâm để trực quán sự vận hành của quy luật thiên nhiên , làm chủ mình trong mọi trạng thái biế động của vạn hữu .

Lại nữa , sự dung hóa của nền văn hóa Việt càng rõ hơn khi đã Việt hóa các tôn giáo , các nền văn hóa Tần – Hán – Đường – Tống đến nền văn minh Ấn Hà và hợp sáng nền văn hóa Tây Phương . Do đó , người Việt có tinh thần ‘’ Bao dung thể ‘’ Yếu tính ấy đã tạo nên một sản nghiệp tinh thần thiêng liêng của nòi giống , quốc gia Việt .

Nói như thế cũng có nghĩa là nói đến vũ trụ , nhân sinh , thế giới quan Việt .

Lịch sử Việt đã sản sinh ra biết bao nhiêu danh nhân , kỳ tài xuất chúng , trong đó có một Lê Hòan phi thường không khác những bậc thần vũ của lịch sử nhân lọai xưa nay . Vừ trải nghiệm , vừa thực chứng lịch sử với đế hiệu Đại Hành .

Từ Đinh - Lê –Lý Trần …, Việt tộc hùng cứ Nam phương đã tạo ra một khí thế Đại Việt . Một quốc gia hùng mạnh ở Châu Á . Có Đại Việt nên phải có Đại Hành hay ngược lại . Có Đại Hành nên mới có Đại Thành – Một thế đứng vững mạnh như núi trước mọi bão cuồng của lịch sử . Đó là căn cơ , thái độ , là cốt tủy của con người Việt , tư tưởng Việt .

Đạo lý Đại Hành là tâm huyết , là ý thức của bậc minh trí , minh quân .

Khi nói đến tư tưởng Hành : Khổng Tử hữu vi , Lão Tử vô vi , Vương Dương Minh tri hành hợp nhất , Gandhi ôn hòa bất bạo động và chân dũng – ‘’ Tôi triệt tiêu – tôi thành con số không ‘’ , Nieztsche sức mạnh siêu nhân và đại dân tộc hùng cường , Karl Mark hành động , Nguyễn Bỉnh khiêm nhẫn ‘’ chỗ thấp nhất trong thiên hạ là biển ‘’ , là ‘’ khôn chết , dại chết , biết sống ‘’ . Riêng Lê Hòan chọn con đường Đại Hành nhằm thực hiện tinh thần cao cả của trời đất và chư thần ‘’ giữ nước , bình định bốn phương ‘’ của bậc anh hào , tạo lập một thời đại hưng thịnh độc lập và phát triển . Mở ra một chiến lược Nam tiến từ Ông cho tới các triều đại sau này .

Nói theo tinh thần Việt tín Thần Đạo , Ông là một bậc kỳ nhân với tư tưởng Đại Hành đã lưu truềyn đến muôn thửơ .

Những phạm trù của lý Đại Hành .

1 . Tiếp tục kết hợp đạo người với đạo Trời để phát sáng ý nghĩa Đại Hành . xây dựng Việt tín Thần Đạo đạt đến đỉnh cao mới với một tư duy hiện đại của nền văn háo văn minh lịch sử Việt .

2. Giữ vai trò chủ đạo của đấng kỳ nhân , đảm nhiệm vai trò trước lịch sử , tạo ra những sáng kiến và động thái mới phù hợp với thời đại mới khi lịch sử , dân tộc cần và trao cho . Bằng ý thức : Trong vũ trụ , đâu là không phận sự ( Nguyễn Công Trứ ) .

3. Bảo vệ sự tòan vẹn lạnh thổ , ý thức tự chủ , độc lập trong một thế giới liên lập để canh tân phát triển tiến đến hiện đại hóa đất nước theo hướng cùng tiến bộ , cùng tồn tại ttrước thế giới mới , thế giới của tương lai bằng đạo đức , tài trí , năng lực sáng tạo Việt

Rất tiếc , chúng ta thấy tinh thần Đại Hành của Lê Hòan chưa được hậu thế triển khai thành một ‘’tập Đại Thành’’ của tư tưởng chính thống Việt , chứ không phải người Việt không có tư tưởng riêng về các vấn đề đã được đặt ra .

Hơn nữa nền văn hóa Việt vừa mang tính tổng thể ,đa dạng vừa mang tính nhu ẩn lại thường ẩn tàng qua các phương pháp ẩn dụ , nhân hóa trong các mệnh đề phụ . Sự bí ẩn dị thường đó sẽ nổi lên như sấm sét , như những hồi Trống Đồng phá tan cái tối tăm của lịch sử , thuận với Thiên Nhân Thần Đạo . Vì lẽ Việt tộc là dòng dõi Thần Minh , lịch sử Việt là lịch sử Thần Đạo và Thần Đạo luôn luôn hiện hữu trên suốt dòng lịch sử ấy .









KHÁI QUÁT THẦN ĐẠO



1. THẦN ĐẠO SƠ KỲ

Văn hoá đời sống đi đôi với tín ngưỡng dân gian trước tất cả mọi chiều hướng tư duy , tư tưởng triết lý con người . Nó hình thành nên tôn giáo một cách tự nhiên như người ta nghĩ tới một Ông Thần – Vị Thần Nông Nghiệp - Thần Lúa hay Thần Nông cách đây khỏang một vạn , hay năm bảy ngàn năm . Cũng như thấy Sét đánh tóe lửa , nghe tiếng gầm gừ trong cõi hồng hoang , thêin địa mịt mờ , người ta tưởng đến một vị Thần - Thần Sấm , Thần Sét .

Và mỗi buổi sáng , khi mặt trời lên người ta vui mừng vì có Thần Ánh sáng , Thần Thái Dương . đêm tối âm u , lại lo sợ Ma vương Ác quỷ .

Nhìn mặt đất thấy sông , núi , rừng rậm , người ta liên tưởng đến Thần Sông , Thần Núi . Nhìn bầu trời mênh mông vô tận , người ta gọi vòm trời hay Ông Trời . Sống hái lượm sinh đẻ trên mặt đất lại luôn nghĩ tới Bà Mẹ Đất . Nhìn ra các sinh vật sống động người ta nghĩ tới c1o một Đấng siêu phàm sinh ra , và ta gọi là Đấng Tạo Hóa . dân gian gọi là Ông Trời , là Mẹ Đất .

Suy nghĩ đến cùng , người ta tôn thờ Đấng Tạo Hóa đã sinh ra muôn lòai . và tôn kính vì sợ hãi vì biết ơn ‘’ Nhờ ơn Trời ‘’.

Các câu kêu thảng thốt từ dân gian như Trời Đất ơi ! là cách thể hiện nguyên lý tuyệt đối đầu tiên của người Việt và đó cũng là vị Thần linh tối cao – sinh hóa muôn lòai . Đó cũng là nguyên lý tối thượng để hình thành nên hệ thống tín ngưỡng Việt tộc Thần Đạo từ cổ đại .

Tín ngưỡng tôn thờ Thần linh từ khai thiên lập địa đã có trên hình mai rùa Thần , sứ giả Việt Thường Thi đem cống Rùa Thần , Chim Trĩ trắng cho Đường Nghiêu ( đời Nhà Châu , sứ giả Việt thường , một bộ tộc trong 15 bộ tộc Việt đã qui tụ dưới chân vua Hùng thời mở nước , Tiền Hán Thư- Sử Ký Tư Mã Thiên đều có ghi chép việc này …)

Trở lại với tín ngưỡng dân gian và chúng ta thử hệ thống lại theo hệ tôn thờ Thần linh của dân tộc Việt .

Từ Thần thọai và truyền thuyết ngừơi Việt thờ Thần linh có nhiều dạng sau đây :

1. Các vị Thần siêu nhiên

Đấng Tối Cao – Ông Trời , Mẹ Đất ,

Thần Thái Dương thờ Mặt Trời

Thần Nguyệt Hằng thờ Mặt Trăng

Thần Sông – Thủy Thần

Thần Núi – Thần Đồng Cổ - Thần Tản Viên

Thần Sấm , Sét , Giông , Bão , Mưa , Lửa …

Nói chung , một số hiện tượng siêu nhiên và đó là năng lực siêu nhiên hoá ra Thần của Thần thoại Việt Nam .

Vị Thần cai quản mặt đất – cõi dương vị Thần cai quản ban đêm hay cõi tối – cõi chết – như Diêm Vương âm phủ .

2 . Có những vị Thần từ trên trời biển linh xuống cứu bệnh ( dịch tể ) cho dân đó là những Thiên Thần được dân gian tôn thờ ( lập đền thờ )

3. Có các Thần linh – do từ các sinh vật như

Thần Tượng ( voi ) Điện Voi ré 15 vị Thần phù hộ voi

Thần Hổ

Thần Rắn

Thuồng luồng ( tích Lạc Long Quân giết thuồng luồng cứu dân )

Thần Long Đổ

Thần Bạch Mã , Thần Bạch Hạc ( 1)

Thần Kim Quy , Thần Đồng Cổ (2)

Thần Cẩu Nhi ( thờ Chó Thần ) (3)

Nam Hải Tướng Quân – thờ Cá voi

4. Các vị Thần từ cây cối và vật ( tín vật của vua ) được tôn thờ

Thần Cây Thị , Thần Cây Đa , Thần Cây Chiên Đàn .

Thần khối vàng ( của Vua Minh Mạng đặt trên tay bà phi yêu dấu vừa mất để chôn theo )

Cây dao Thần ( tục phát Đao Điền )

Tà Thần ( Dâm Thần ) Nghiêm Nhan đời Trần .




                                                          ( Phong Châu - từ            )


1. Đất Phong Châu thời thượng cổ có 1 cây lớn gọi là Chiên Đàn cao to , cành là rậm rạp , có chim hạc đến làm tổ ở trên nên gọi đất ấy là Bạch hạc , cây đó sống đã lâu không biết mấy nàgn na9m ( Lĩnh nam Chích Quái ).

2. Sau này có xây dựng được Đền Thiêng Thần đạo thì thờ Trời ở trên Đàn cao nhất . Có hình Nhật Nguyệt quang Thần ở hai bên bầu trời , tượng trưng cho lẽ âm dương của Trời Đất . Trong khi đó vẫn trùng tu lại Điện thờ Thần Đồng Cổ ( từ thời Lý , Trần ) , Đền Nam Giao đời nhà Nguyễn .

3. Đọc Tây Hồ Chí .









Cây đàn tranh của Chu Mạnh Trinh

Cây gươm lịnh của Nguyễn Trãi

Chiếc chiếu Tà Niên ( chiếc chiếu nhuộm máu của Người anh hùng Nguyễn Trung Trực khi bị Pháp hành quyết ông tại Chợ Rạch Giá ) . Ông thường hiển thân , hiển lộng thần oai rất linh thiêng và được nhân dân nơi đây sùng bái .

5.Các vị Thần là những anh hùng hào kiệt , là anh thư , là tướng bảo vệ nền độc lập Tổ quốc .

Tất cả từ đời vua Hùng cho mãi đến ngày nay , anh linh của các quốc công đều được tôn thờ ở Miếu đường , ở Lăng , ở Đình , ở Trấn .

Suốt giòng lịch sử Việt cho thấy rằng những người có công cứu nước giúp dân , khai sáng khi chết đều có sắc phong của Vua cho làm Thần ở nơi sinh quán của mình – gọi là Thành Hòang .

Mỗi năm đều có sự vọng bái , tế lễ - ở các đình miếu làng xã – càng nàgy càng vinh hiển .

Như thế , đạo thờ tất cả Thần minh là Thần Đạo hay gọi là Thiên Nhân Thần Đạo , nên từ xưa , dân tộc Việt đã sớm xuất hiện một tín ngưởng chính thống từ vua Hùng lập nước đ6én nay : thần đạo bao gồm cả Thần và Tiên từ thượng cổ .

Người dân coi đó là việc tôn thờ Thần linh trong quan niệm Thần bất tử . vạn vật ư linh – Mà sự tôn kính – linh cảm – linh ứng vô cùng phong phú của dân tộc vậy . Sống làm người tốt , có danh vị , chết được triều đình ban sắc cho dân làng hay tỉnh thành thờ cúng hương khói bốn mùa để nhớ ân đức .

Như thế nên trên hết là ý trời , luật trời định , lẽ trời biến diễn vô cùng . Cũng là nguyên lý âm dương dịch hóa .

Thần Đạo là đạo thờ Trời như các dân tộc thượng cổ , mỗi tôn giáo đều có một Ông trời . Ấn Độ gọi là Brahman , Do Thái gọi là Thượng đế , Diêu , Tàu gọi là Ngọc Hòang , Hồi Giáo gọi là Alắc ( Allah ) . Việt Nam gọi là Ông Trời . Goi theo sự tôn kính tôn giáo là Đấng Chí Tôn – gần với văn minh cổ Ai Cập – La Mã là Thần Zeus – Có tôn giáo như Bái Hỏa Giáo thờ Thần Lửa – Thần Đạo Nhật Bản thờ Thiên Chiếu Đại Thần .

Thần Đạo Nhật thờ Thái Dương Thần Nữ

Thần Đạo Việt Nam thờ Lạc Long Quân – Mẹ Âu Cơ .

Ở Ai Cập có Thần khổng lồ , Việt Nam có bà Tồ Cô – Thần Núi Tổ - Núi Tản Viên – Thần Trống Đồng vừa là Thần Núi Đồng Cổ …

Các chiến binh tử trận linh hồn họ đều về núi Kim Nhan , Nghệ An , hay được thờ ở Miếu Âm Hồn theo sự tàhnh lập đền thờ chiến sĩ trận vong của Vua Minh Mạng .

Trước thời Bắc thuộc - Thần Đạo của Người Việt đã có đền thờ Phù Đổng Thiên Vương ( Thần đồng đuổi giặc Ân )

Có đền thờ Thần Đồng Cổ tượng trưng cho uy lực của Trời – Trên mặt trống đồng Đông Sơn có ngôi sao nhiều cánh hình mặt trời . Mỗi kỳ tế lễ Vua quan triều đình đều ra Đền Đồng cổ mà lập lời thề trước Trời Đất Thần Linh chứng giám . Đời sống văn háo từ trước và trong thời đại 18 vị Vua Hùng đã có Thần linh , thờ các vị tiên sư ,dạy các hòang từ - Thần Đồng Cổ như vị v chiến thắng cùng với Thần Núi Tàn Viên ( đền thờ Tản Viên Sơn Thần ) gọi là Tản Viên Sơn Thánh – Khi giặc đến thì cả làng , nước đều đánh giặc . Thường thì trong đạo quân Nam lúc nào cũng có đánh trống đồng và xem đó như một linh khí . Trống đồng có tiếng dội vang âm rùng rợn của núi rừng linh thiêng nên giặc nghe rất sợ đến mất hồn vỡ mật – Một sứ thần quân Mông Cổ , sau khi chiến tranh kết thúc đi sứ sang Đại Việt đời Trần nói rằng – mỗi khi nghe lại tiếng Trống đồng mà phách lạc hồn xiêu . Đó là tiếng trống đuổi giặc như trống võ Tây Sơn của đòan quân Nguyễn Huệ sau này .

Trong chiến đấu , người Việt lúc nào cũng tin tưởng có trời Đất phù hộ . Có Thần sông núi che chở vì thế mà Thần Đạo phát triển sâu rộng ở khắp nơi và đã trải qua từ muôn đời .

Biểu tượng của Thần Đạo và cơ sở của Thần Đạo ở làng xã là ngôi đình làng , ở cung điện Vua chúa là Đền Vua , Thần Đạo không chỉ thờ Thần linh mà còn là một nếp sống hòan diện , một hệ thống văn hóa sâu xa bền bỉ , trãi dài theo giòng lịch sử trường tồn của người Việt .

Đời sống văn hóa tôn Thần đã thẩm thấu sâu đậm trong lòng dân tộc , nên ở khắp mọi nơi , mỗi khi có việc quan trọng mà sức lực hữu hạn của con người không thể giải quyết được , lòng người khẩn cầu trời , khấn vái đất , kêu than .

Về sau khi đạo Phật từ Ấn Độ và Trung Hoa sang , người việt vừa thờ TRời Đất – Thần linh của mình , vừa thờ cả Phật trong lòng , như gọi

- Trời Đất ơi ! Trời Đất quỷ thần ơi !

- Trời Phật ơi !

Mỗi khi có việc bối rối , lo lắng sợ sệt , họ cầu khẩn gấp Thần linh ở nhà , ở đình , ở miếu . Gọi Cô , Gọi Cậu , Gọi Bà Cúa luôn mồm . sau àny có đền thờ Mẫu – Mẫu được đưa lên ngang gần với Đấng Chí Tôn là khác .

Đời sống văn hoá thời Hùng vương còn có lệ cúng tế Trời Đất . Phong tục xây dựng gia đình , xã hội có tôn ty trật tự . Vì thế mà có bàn thờ gia tiên ở trong nhà thờ ông bà cha mẹ và ngừơi đã khuất .

Cưới hỏi có miếng trầu đầu câu chuyện , có buồng cau và chút ít của cải của cà hai họ đi cho đôi vợ chồng mới . Phong tục đơn giản mà đậm đà tình nghĩa vợ chồng .

Câu chuyện trầu cau của hai anh em đã chứng tỏ điều ấy .

Sự tích rằng :

Từ thượng cổ có anh em nhà quan lang tên là Tân và Lang . cả hai theo học với đạo sĩ họ Lưu .

Người con gái họ Lưu được gã cho người anh là Tân . Người em thấy bớt thân tình nên đã bỏ đi . đến dòng suối ngồi bên bờ tủi thân khóc lóc thê thảm , nhịn ăn mà chết háo thành cây cau . Người anh đi tìm em , đến nơi gieo mình bên cây cau chết theo , hóa thành tảng đá vôi . Người vợ tìm chồng , đến nơi biết được việc ấy , nên buồn ôm tảng đá mà chết theo . sau hóa thành dây có lá xanh vàng là lá trầu , quấn quít với nhau không rời .

Nhà vua đi qua , nghe thuật lại câu chuyện thân thương – tiết nghĩa của ba người . lại thấy dân làng lập bàn thờ cả ba .

Vua lấy là trầu nhai , quệt vào ít vôi và lấy buồng cau trên cây ăn thử , nghe vị chát mà đậm đà . Nhổ nước bọt tấhy màu hồng . về sau người đời bắt chước ăn trầu cau , quệt vôi ( đá ) vào và mỗi lần lễ cưới đều có tục Trầu cau cứơi hỏi – trở thành phong tục của ngừơi nứơc Nam xưa nay .







Thờ Cây Đá – Cô Hồn – Thổ Địa



Người ta còn thấy nơi các gò đống ở đồng bằng Bắc bộ hay Nam bộ thường c1o các bụi tre , tự nhiên mọc lên hay người trong thôn xóm trồng , dười bụi tre có cái miếu nhỏ hay một cái am nhỏ .

Hoặc có một cây to lâu năm , cành nhánh sum suê che thành một cái táng rộng , dưới gốc cấy có kê lên cáo một cái bệ bắng cây hoặc xây bằng gạch để thơ Thổ địa , Ông Tà hay các cô hồn cô quả quanh vùng . Người trong thôn xóm đến thắp hương dưới gốc cây . Còn bỏ các lọai ông bình vôi đầy chung quanh cây như để gợi nhớ đến một ý niệm Trường sinh bất tử của đạo thờ Thần cây - Thần Đá –và cả Thần tiên nữa .

Trong nhà còn có thờ Ông địa – Thờ Thần Bếp - Thần Tài và GiaThần Hộ mạng . Trước sân mỗi nhà có lập Bàn Thông Thiên để thờ cúng Trời , Đất , cầu sự bình an .

Do vậy mà Thần đạo được em là tín ngưỡng của dân gian Việt , thờ phụng tổ tiên là nét chính thống của Việt tộc .

Mỗi làng thường xây đình để thờ vị Thần cai quản làng nước thân cận với nhân dân phù hộ nhân dân . Trong sắc phong của vua Minh Mạng có câu : ‘’ các Thần hãy phù hộ cho thần dân của trẫm ‘’

Ngày nay từ Bắc chí Nam , nơi nào có người Việt đều có đình làng để thờ Thần . Như thế tín ngưỡng chính thống của người Việt là Thần Đạo . Một minh chứng rõ ràng nhất trong nền văn hóa Việt .

Ngừơi Việt xưa nay không hệ thống hóa đức tin là Thần đạo của mình mà lại cứ xem các tôn giáo khác làm quốc giáo như đời Lý – Phật giáo , vì vua Lý là Lý Công Uẩn thưở nhỏ được làm con nuôi của sư Lý Khánh Vân về sau Lý Khánh Vân lại gửi Lý Công Uẩn sang chùa Lục Tổ nhờ sư Vạn Hạnh dạy dỗ thành tài .

Nhà Trần lấy đạo Khổng của nền Nho học làm chính giáo vì ảnh hưởng quá nặng của hệ thống cai trị giáo dục theo Trung Quốc .

Nhưng các tôn giáo ấy có hưng thịnh hay suy àtn là tùy theo mỗi chế độ cai trị của thời đại đó . Riêng Nho gáio từ thời Bắc thuộc , cùng với Phật giáo và Lão giáo vào nước ta quá lâu đã bén rễ đầy đủ hàng ngàn năm . đến nay , Nho giáo tuy không còn là môn học của sĩ phu như xưa nữa , nhưng tinh thần Nho giáo hòa nhập với Thần Đạo Việt nam vẫn hiện hữu trong đời sống gia đình xã hội người Nam . Tâm hồn người Việt rất đơn giản dễ hòa nhập , cho nên trước đây Nho- Thích – Lão rất thuận hợp với đời sống người Việt .

Chúng ta thấy thời thanh niên lập thân danh thế hành đạo thì Nho giáo rất thích hợp

Người không ham nhập thế lập thân danh – chỉ muốn sống hoà hợp với trời đất thiên nhiên thì người ta ở ẩn như đạo Lão – Lão Trang – như cụ Nguyễn Bỉnh khiêm . người coi cuộc đời này là cõi vô thường – vạn páhp vô thường , chỉ lo tu niệm , không ham mê vật chất , thì theo Phật mà tu tại gia hoặc tu hành ở chùa mong sẽ thành chánh quả - được về đất Phật .

Tuy nhiên lúc nào các đình làng cũng vẫn là căn bản của nền mống – cõi trú của linh thần và niềm an ủi , tin tưởng của nhơn dân .

Cho nên các làng xã lúc nào đến kỳ cúngThần và rước sắc thần cũng làm lễ hội rình rang . Quan trọng hơn hết cái Đình cũng như ngôi chùa hay nhà thờ đạo Thiên chúa . Đều có kiến trúc đặc biệt . Đó là nét biểu tượng của tôn giáo Đình của Thần Đạo Việt Nam .(Đọc thêm về Văn Hóa Đình của Kim Định và nhiều tác giả khác )

Chùa – Miễu của Đạo Phật

Nhà Thờ của đạo Thiên Chúa

Cái Tháp của Hồi Giáo ( hoặc Đền của Ấn Độ giáo )

Cái Thảo Am hay Quán của Lão giáo ( về đạo Lão ( Lão Tử - tu tiên ) nên nơi thờ cúng gọi là quán )

Trường hợp Đồng Thiên ( Quán ) thờ vị Thánh Mẫu là Phù Thánh linh nhân hòang thái hậu ( tức Ỷ Lan nguyên phi vợ vua Lê Thánh Tông ) Quán này do bà dựng để thờ Tam Thanh .Có tích là 3 ông tiên . Có nơi giải thích là Ngọc thanh , Tượng Thanh , Thái Thanh đều là cõi tiên ở .

Về sau người ta dời Quán sang Đền . Yên Thái là nơi cũ của hòang hậu hợp chung lại mà thờ . vì coi như Tam giáo Đồng nguyên – các Chùa có khi thờ Thần – các Đình cũng có thờ Phật – các Quán không chỉ của đạo gia thờ Tiên mà có cả thờ Thần , thờ Phật – các Quán không chỉ của đạo gia thờ Tiên mà có cả thờ Thần .

Thần Đạo Việt Nam là đời sống tinh thần đã ẩn tàng quá sớm , rất sâu bền tự nhiên nên không chia cách gay go gì với các tôn giáo ngọai nhập cả mà gần như là đã Việt hóa – ta có thể gọi đó là Tứ giáo Đồng nguyên, hay có thờ Đức Chúa Jesu Christ , Đức Mẹ Maria , thiên y A Na , Thờ Bà Đen của Ấn Độ , của Hồi giáo cũng thờ gần gũi , không có hiềm khícg mâu thuẫn cực đoan gì đối với tôn giáo bạn . Như bấy lâu nay người Chăm theo đạo Hồi , và người Chăm theo Ấn Độ giáo vẫn sống bên nhau và tôn trọng lẫn nhau từ lâu .

Đời vua Hùng ngòai thờ Trời Đất còn thờ Thần Tản Viên – thờ Thần Phù Đổng – thờ Thần Đồng Cổ . Có tích An Tiêm kể việc trồng dưa , có tích hòang tử làm bánh chưng , bánh dày như Trời và Đất để cúng Tổ tiên và chư Thần . đó là đạo hiếu thảo .

Đến đời nhà Thục chiếm nhà nước đầu tiên Văn Lang của vua Hùng Vương xưng là Âu lạc – lập đền thờ Thần Kim Qui – xây Cổ Loa thành – Các đình làng dân chúng đều có thớ các vị hòang tử từ đời Hùng Vương – thờ Thần Đồng Cổ , nhất là thờ vị Thần Hộ Quốc của Nhà Thục là Thần Kim Qui , Thần Kim Qui dạy cách trừ yêu để nhà Thục xây Cổ Loa Thành . Cho móng rùa vàng để làm nỏ Thần giữ nước chống quân Tần – Hán – ( Đời Tần Thủy Hòang có tướng Tần là Triệu đà cướp nước Việt rồi xưng là Triệu Việt Vương ) đất từ vùng Bắc Việt rộng đến Quảng đông , Quảng tây gọi là Bách Việt – Nam Việt .

Sau này người Việt không thờ Triệu Đà cho đó là giặc Tàu – nhưng có đền thờ Thục Phán . có đền thờ Cao Lỗ là vị tướng chế ra nõ thần để phá giặc Tần .

Khi Thục Phán mất nước , người Việt có lập đền thờ gọi là Đền Công – Có giếng thần là giếng Trọng Thủy Mỵ Châu .

Sau đó là thời kỳ Bắc thuộc , quân giặc từ nhà Triệu khi mất nước nhà Hán sng cai trị hà khắc dân Nam – tất cả đời sống và học hành đều theo tàu . Người Hán mưu đồng hóa Việt nam – đem Tam giáo Cửu lưu kinh sách của Tàu qua dạy người Việt . Mở khoa thi chọn người có học theo tàu làm quan . Thờ Khổng Tử và Lão Tử cùng bách gia Chư Tử . Tuy bị đồng hóa , mất cả chữ Khoa Đẩu là chữ viết cổ đại , người Việt vẫn giữ được tiếng nói của mình và bản sắc văn hóa Thần đạo Việt nam . đây cũng là giai đọan cực thịnh của văn học truyền miệng .

Trong tâm linh Việt chỉ thờ Trời Đất , Thần linh của người Việt ( là Thần đạo – từ đời vua Hùng ) .

Với quan niệm của Việt tộc thì từ trước đến giờ và từ giờ về sau Hùng Vương Việt Tổ - vị Quốc Tổ được Việt tộc tôn thờ , sùng kính nhất . các Thần tích Việt , Thần thọai Việt cổ tích Việt và các nơi như đình làng , dinh , trấn , miếu mạo , đều thờ các vị Thần của dân tộc từ khi lập quốc . Nhờ tiếng nói và Thần Đạo Việt Nam mà văn hóa bản địa , tinh thần , ý chí người Việt luôn bền vững trải qua hằng ngàn năm bị Tàu đô hộ , mà ngừơi Việt vẫn không mất cội nguồn , đó là nhờ ở một nền văn háo sơ kỳ , ở đức tin chính thống là Thần Đạo Việt Nam . thếit nghĩ chúng ta cũng nên đọc lại truyền thuyết hình thành dân tộc Việt từ thượng cổ .

Người Việt quan niệm đất nước thiêng liêng của mình là đất nước Nam của Trời sinh – Trời định .

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư .

Trời là chúa tể của vũ trụ vạn vật , là nguyên lý tuyệt đối , là nhất thể tính . Do ngũ hành sinh hóa tạo ra vạn vật . Người Trung Quốc lân cận với người Việt – giòng Bách Việt trong đó có Lạc Việt – Chiêm việt ở Phương Nam .

Người Trung Quốc dùng năm ngọn núi để trấn giữ thì người Việt ở phương Nam dùng năm nguồn linh khí để trấn phương Nam là :

Đông phương Nhật Thần trấn cõi Đông Tây phương , Nguyệt Thần trấn hướng Tây , Bắc Phương Huyền Vũ trấn hướng Bắc , Nam Phương Hỏa Thần trấn hướng Nam . Nước Nam là chũ cõi Nam quốc ở giữa – như Trời là chủ tể của vũ trụ ở trung cung của Ngũ Hành . sau này , tại nước Nam có đạo Phật phương Nam thì nhà Chùa xây nên Pháp Vân , Pháp Vũ , Pháp Lôi , Pháp Diện cũng theo các nguyên khí của Trời Đất mà lập thành . căn bản cũng từ Thần đạo tư tưởng Việt tộc mà ra .

(Thần thọai Việt nam còn ghi Vợ của Ông Trời Việt Nam là bà Tây Vương Mẫu Chúa tiên bên Tàu )

Đạo Phật vào đất Thần minh hóa nhập ngay thành tinh thần hợp nhất với Thần đạo Nam phương coi như đại hung , đại lực , đại từ bi của Phật đã hòa với nguyên khí Thần linh của Thần đạo và thánh linh của đạo Khổng thành ra tứ giáo đồng nguyên , trong câu nói tự nhiên của người Việt là Thần – Thánh – Tiên – Phật . Chữ căn nguyên , cội nguồn của văn hóa tinh thần Việt là chữ Thần , đầu tiên Thần khí – nguyên khí – đại minh Thần rồi sau mới nói thêm là Thánh – Tiên – Phật – hay than cận với Phật , hơn người Việt thường kêu lên như đã nói :

- Trời đất ơi ! Trời Đất Quỷ Thâ`n ơi !

- Trời Phật ơi !

Trời là đạo trời , là thiên đạo của người Việt . Trời tối cao tối đại , uy lực bao trùm vũ trụ . Người Việt gọi là cha Trời mẹ Đất , than mật như cha mẹ trong gia đình . Đạo lý Việt Thần từ đó có Trời Đất – Tổ tiên ( ông bà cha mẹ going họ ) đạo thờ Trời , Vua là chủ của đất nước vì thế Vua và các quan là nguyên khí của quốc gia , đều phải giữ gìn đạo Trời . Tin ở số trời tốt đẹp , ban hồng ân xuống cõi đời và luôn hộ trì cho going giống Lạc Việt đời đời . Điều quan trọng về con người , về nhân phẩm , nhân cách cộng với tấm than xác thịt trần thế , người Việt đặc biệt thời cổ đại có 2 ngón chân cái giao nhau , như an hem bao bộc gần gũi tạo cho thế chân đi đứng vững vàng cho nên người nước ngòai , cả người Trung quốc đều gọi đó là Giao chỉ , gọi nước Việt là Giao Châu . Giao Châu còn có nghĩa bong là châu ngọc , quí hiếm .

Điều ấy đã nói lên sự trác việt , tinh anh của người Giao Châu , người văn nhân háo hoa phong nhã . và do người Giao Chỉ có nhiều châu báu nên người phương Bắc luôn để lòng xâm chiếm . đã vậy người Giao Chỉ có nhiều voi ( Giao chỉ Tượng hay Tượng quận) và cả đất quảng Nguyên đầy vàng – quảng Nguyên kim . Khi người Tàu xâm lấn , người Việt dung voi đề đổi lấy lại đất quảng Nguyên có nhiều vàng . Voi lúc nào cũng mang biểu tượng hung mạnh nhất của người Việt ( của các dân tộc Đông Nam Á ) chứ không trọng hổ .

Đời Gia Long – Minh mệnh sau này có xây điện thờ Thần Voi -15 vị Thần hộ mạng cho tượng binh : Xây điện Voi ré ở Huế . Từ ácc anh thư , nữ kiệt , vua quan Việt khi ra trận thường cưỡi voi – như Hai Bà Trưng – bà Lê Chân , Bà Triệu . Người Việt trọng voi khinh hổ vì voi là con vật thiêng theo phò vua Hùng vương lúc mới lập quốc .






       ( Đền thờ Hai Bà Trưng )                                            ( Đền Tiên La - thờ các nữ tướng của hai bà )




Truyền thuyết ghi lúc Vua Hùng dựng nước có 15 bộ tộc và 100 con voi Thần về chầu , trong đó có một con bị vua xử tử vì quay đi .

Các lễ hội đền Hùng – giỗ tổ mùng 10 tháng 3 âm lịch sau àny quên mất tượng binh và 100 con voi Thần – nên không có vẻ uy nghiêm nữa – Voi trắng được xem là linh tượng , mang lại điềm lành và thịnh vượng nên người Việt rất quý trọng . Nhưng lúc đem cống cho người Trung quốc , người Việt thường đem voi đực đi cống , như lúc Nguyễn Huệ đem cống cho Vua Càn Long voi đực to lớn nhưng là voi thường .

Đặc biệt người việt coi màu trắng là màu linh thiêng qúy báu nhất – nên ban ngày là ngày thanh thiên bạch nhật – chữ ‘’ bạch ‘’ quan trọng hơn cả , vì thế mà các linh vật của người Việt là Bạch tượng , Bạch hổ . lân thì có Lân râu ab5c . Bạch xà , bạch long . Nhất là lòai Chim Trĩ Trắng đẹp tuyệt trần , là con vật linh thiêng của sông núi Việt thời hồng hoang . Có truyền thuyết ghi lại ở sử Tàu ( Tiền Hán Thư ) và cả sách Tàu là Sử Ký Tư Mã Thiên có viết về sứ giả Việt Thường đem cống cho vua Đường Nghiêu Chim Trĩ trắng và Rùa thần – trên mai rùa có thần thọai ghi về sự tích ‘’ Tạo thiên lập địa của người Việt ‘’ . Tức là quan niệm về vũ trụ của người Việt – về mặt triết học và tôn giáo thờ Trời và Thần linh của mình . Đó là quyển Thần thư bí ẩn như kinh sáng thể của Tây phương hay sách kỳ môn độn giáp của Tàu . Sau đó người Việt còn biên sách Lạc thư ( sách của người Lạc Việt ) từ quan niệm ngũ hành đến sự tuần hàon của tạo hóa – tính chất của thời gian và đời sống hòa hợp với thiên nhiên với Trời ( thiên lý ) của người Việt đã tạo ra đời sống văn hóa – tâm linh huyền diệu vô cùng . Như thế , về thời gian triết học của người Việt đi xa và trước ảc nhà tư tưởng vĩ đại của Âu Châu ngày nay là Martin Heidgger với tư tưởng về hữu thể và thời gian .

Về mặt đời sống theo như sự luân chu của trời đất mà con người sống hợp với đạo Trời đất – xuân hạ thu đông cứ thế mà tuần hoàn . Tinh thần đó trong Thần đạo Việt Nam đã tạo ra được thiên Hồng Phạm – Cửu trù ( Coi sách chữ thời của Kim Định ) vô cùng huyền nhiệm , hiểu biết được đạo tuần hòan của trời đất . Sống theo thiên lý hợp với lòng trời – Lục Tượng Sơn , một Nho việt nói ‘’ Vũ trụ Tiện Thị Ngô Tâm ‘’ đâu phải triết học duy tâm , duy thức chỉ có ở nhà Phật hay ở Hegel của Âu Châu cận đại mới có . nên thần đạo Việt gọi ‘’ thiên lý tại nhân tâm ‘’ đến Lý thường Kiệt thì hiểu ngay tổ quốc dân tộc Việt ở phương Nam này cũng là tổ quốc của Trời sắp đặt ra . Đạo Trời ở Phương Nam còn có ngọn huyền hỏa vô cùng mãnh liệt đốt cháy tất cả những dân tộc nào ỷ thế đông mạnh như giặc Tần , giặc Nguyên , Minh và Tây tà xăm lăng đất nước Việt ‘’ Trước sau gì cũng bại vong mà thôi ‘’.

- Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

Thiên lý tại nhân tâm cho nên đạo Trời cũng là của lòng người . Sự huyền diệu linh thiêng của Trời cũng là sự tinh anh của dân tộc Việt nên Thần đạo còn gọi là Thiên Nhân Thần Đạo . Sự quyết định của lòng người cũng là sự quyết định của Trời .



II . TƯ TƯỞNG ĐẠI HÀNH



Lê Hòan lúc lên ngôi thi hành chính trị làm chủ đất nước bèn lấy ngay biểu tượng Đại Hành mà xưng vương hiệu của mình tức là Lê Đại Hành . các tư tưởng triết lý của Á Đông xưa có thuyết tri hành hiệp nhất . Cách vật trí tri của Dương Vương Minh .

Karl Mark , Angel gọi là nhân vi , là hành động của con người ( praxix ) nhưng với vua Lê Hòan . Người còn muốn đưa cái hành vi , hành động của người Việt vĩ đại hơn , cao cả hơn như hành động của Trời Đất Thần linh bao trùm cả vũ trụ vạn hữu nên mới gọi là Đại Hành . Có Đại Hành mới có Đại Thành . Đó là tư tưởng quán triệt càn khôn vậy .

Lại tìm thấy ở đời nhà Trần khi chống giặc Nguyên Mông . Nhân huệ Vương – trần Khánh Dư dầu bị cách chức về núi Chí Linh làm nghề đốt than nhưng mãi còn vang tiếng tráng chí hùng tâm được vua Trần Nhân Tông kính trọng . chuyện vị ‘’ danh tướng bán than’’ và truyền tụng mãi đến muôn sau .

‘’ Một gánh kiền khôn quảy tếch ngàn

Hỏi chi bán đấy ? Gửi rằng ‘’than !’’

Ít nhiều miễn được đồng tiền tốt

Hơn thiệt nài chi gốc củi tàn !

Ở với lửa hương cho vẹn kiếp

Thử xem sắt đá có bền gan ?

Nghĩ mình lem luốc toan nghề khác

Ngưng lệ ( sợ ) trời kia lắm kẻ hàn .



Than là lửa là ngọn Huyền hỏa , sinh hỏa , phán xét , là hành động cứu dân no ấm của vị Thần Phương Nam .

Thần lửa cũng là Thần Thái Dương

Có lửa hương mới hong ấm mùa Đông gia buốt lạnh lẽo cõi đời . gánh kềin khôn là gánh cả trời đất – Gánh là chịu trách nhiệm lo cho dân no ấm khỏi cảnh cơ hàn , là trách nhiệm trước lịch sữ Việt . đạo lý của Việt tộc – của Thần đạo Việt Nam là như thế đối với người đảm nhận trọng trách lãnh đạo tòan dân .

Ý khí oai hùng cao vợi , đánh giặc Mông Cổ là giặc Trời , hại Trời thì có Trời phù hộ dân at chiến thắng , là đại thành công , là đại thắng quân Nguyên Mộng . tư tưởng Đại Hành của người Việt chói sáng sự vi diệu như hào quang của Trời ( Minh Diệu ) . con người Việt , tư tưởng người Việt vừa hiện hữu vừa có lẽ chu lưu , tuần hòan với nhịp sống thời gian của vũ trụ vạn vật .



Nguyễn Bỉnh khiêm – nhà hiền triết , nhà tiên tri Việt viết :



Thu ăn măng trúc , đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen , hạ tắm ao

Rượu đến gốc cây ta sẽ nhấp

Nhìn xem phú qúy tựa chiêm bao .



Ông là quan đại thần nhà Mạc , sau từ quan về sống với thiên nhiên ở am Bạch Vân – tu thanh tịnh vô vi , theo học phái Lão trang sống thanh đạm thảnh thơi hưởng phúc thọ lâu bền . Ông mất đi để lại Sấm Trạng Trình rất nhiều thơ văn mang ý nghĩa triết lý thông thái để dạy dân tộc : ‘’ khôn chết , dại chết , biết sống ‘’ .







                                               ( Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm - từ              )







Biết là biết lẽ họa phúc tồn vong của thời thế . cái biết của thần thánh nhân , của hiền giả mà xự sự với đời . Biết cũng là viễn kiến vậy , biết cũng là sự chuyên tâm cần mẫn học hành cho tới cái rốt ráo tận cùng của sự biết là chí minh , chí nhân , chí thiện . Chí minh đạt đến đỉnh tộ cùng , phải đi với chí nhân , chí thiện thì mới đầy đủ đức tính của người Việt ; sâu sắc , bình dị , từ bi , bác ái và nhất là phải có nhân , có nghãi , có trí và có thần . đó cũng là đạo lý Việt Thần vậy .

Thần là sự tốt đẹp thành tựu nhất của con ngừơi . Thần là tinh thể của vũ trụ vạn vật . Thần là nguyên khí của quốc gia .

Thần cũng là sự cao sáng nhất , oai linh nhất không có gì bằng . Như chúng ta dã thường nghe cặp mắt Thần của Khương Công Phụ , Thần thi Lý Thường Kiệt , Đức Thánh Trần Hưng Đạo , Thần nhân La Sơn Phu Tử , Thần Tốc Đại đế Quang Trung , … Và cũng thường nghe nói cái móng rùa Thần của Thần Kim Quy , ban cho vua Thục để chế nỏ thần , cái móng rồng của Chử Đồng Tử ban cho Triệu Quang Phục , con Thần mã của vua Quang trung .

Các vị tướng trên trời hiển linh cứu độ thế gian được thờ gọi là Thần Tướng , Thiên Tướng .

Tất cả các triều đại , các vị tướng quân có công giữ nứơc dẹp giặc giúp vua khi sống là người có tước vị danh giá khi chết làm Thần ( thành hàong bổn xứ ) vua sắc phong về cai quản cõi âm và nơi quê quán của mình để phù hộ dân tình , híup dân sống bình an , no ấm , mưa thậun gío hòa được nhơn dân thờ phụng . Con cá ông , cá voi có công cứu ngư dân vùng biển được thờ làm Thần , được phong Nam Hải Đại Vương , hay Đại tướng Quân đều được dân gian tôn thờ biết ơn , làm lễ hằng năm , gọi là Lễ Nghinh Ông , cầu Ông . Khi đánh với Tây Sơn , Võ Tánh và Ngô Tùng Châu tấht trận chết theo thành Qui nhơn đều được phong Thần .

Các tướng binh tử trận đều được về ở với Thần núi Kim Nahn Nghệ an , hay được cúng tế ở miếu Âm Hồn là đền chí sĩ trận vong của nhà Nguyễn – Gia Long , Minh Mạng cho đền tận ngày nay . các đền miếu đình thờ Thần , đó là cái nôi vật chất của Thần Đạo chính thống của dân tộc Đại Việt .

Thần Đạo – Tín ngưỡng chính thống của ta nên cũng gọi là Đại Việt Thần Đạo cho hợp lý vậy .

Nhà hiền triết Nguyễn Bỉnh khiêm không chỉ dạy chữ Biết mà còn dạy cho con người Việt một chữ Nhẫn là chịu đựng , là ẩn nhẫn , chịu nhục , chịu nhường , vì lúc còn yếu thế . dân tộc Việt ít người trước kẻ xâm lăng bạo tàn ngang ngược phải biết nhẫn để đợi thời cơ cho nên cụ đã dạy :

‘’ Ở đời muôn sự nhẫn thì qua , qua lúc cơ cực lầm than , yếu thế ‘’.

Như cọng lau uốn mình trước cơn bão tố . Khi bão qua thi vẫn đứng vươn mình trở lại như trước . Khi đó nếu không chịu nhẫn , mà dùng thậut cương cường thì chẳng káhc nào như cây to trước bão cuồng dễ bị nhổ trốc gốc , hay gãy làm đôi . Vì uẩn nhuyển được ý nghĩa thâm sâu ấy nên dù vật đổi sao dời , dâu biển tiếp nối , những phùng hưng phế tạhnh suy , nhưng tâm hồn Việt cứ mãi rộng lượng bao dung đến vô cùng .

Nghệ thuật tồn tại và tâm hồn khóang đại của Lão Trang cũng thế .

Lão tử dạy , chổ thấp nhất trong thiên hạ là cái biển hay ‘’ mũi nhọn thì dễ bị tà ‘’ từ thuật sống quên mình , không trọng thân , không tham danh lợi vì cái lợi thường ví như :

‘’ Con đường danh lợi vinh liền nhục

Vào cuộc trần ai khóc trước cười ‘’

( Cổ thi )

Đó là phép giữ thân phóng dật của kẻ sĩ trong thời đen tối nhiễu nhương lọan lạc xưa nay .

Tinh Thần nhân ái quang minh chính đại của chư Thần cũng là tinh thần dân tộc Việt . Cũng trong sáng chính đại quang minh như tâm thức , Thần thức tự trong lòng người minh triết Việt Nam . đó cũng là lý Đại Hành .

Thần Đạo Việt Nam là Thần Đạo dân gian , ngàoi các vị Thần là hiền tướng lương tướng của triều đình có sắc phong của Vua . Người dân cũng do lòng quý trọng kính mền biết ơn các vị hiền nhân hiển thần , hiển thánh , các nàng tiết phụ như tiết phụ Nam Xương nguyện lập miếu thớ , đến vua Lê Thánh Tôn lúc đi qua nghe câu chuệyn cũng phải chạnh lòng :

‘’ Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương

Miếu ai như miếu vợ chàng trương ‘’

Dân thờ trước rồi Vua biết được ra sắc phong Thần thờ sau . Vua và dân cùng một lòng ghi nhớ công lao nuôi dưỡng trẻ thơ của nàng thiếu phụ .

Có muôn ngàn sắc thái thờ Thần Linh của Người Việt mà cao nhất là Trời và Thiên Thần đến Nhân Thần , đến Thần Vật Linh , Thú Linh … Từ cõi lòng của con người đã có thệin lương là đức sáng của Trời và cũng từ tri ngộ ơn Trời Đất mà đem cả lòng thành của mình đối với thiên nhiên sự vật , như thi sĩ , đại hiền triết Bùi Giáng viết :



Ta đã đặt trong bàn tay vạn vật

Quả tim mình nóng hổi những chờ mong

Con kiến bé hoa hoang và cỏ dại

Con vi trùng sâu bọ cũng yêu luôn



Cho ta thấy cái lượng Trời , bao dung thể , trùm lên cả vũ trụ càn khân cũng do từ tâm ý của mình .



III. KIẾN TRÚC TƯ TƯỞNG VIỆT .



Từ đây chúng ta ghi lại một vài kiến trúc tư tưởng văn hóa Thần Đạo Người Việt .

Tuy là không có một hệ thống , một thánh đường hay quyền giáo chủ tổ chức đặc thù . Nhưng Thần Đạo việt nam đã có sẵn nghi thức từ triều đình để tôn thờ Thần . qua Bộ Lễ ngày xưa , Vua và các quan đến ngày xuân thì tế cáo ‘’ Ăn Thề ‘’ ở Đền Đồng Cổ như đời Lý Trần như thế Vua thay quyền Giáo Chủ Thần Đạo . Thời Chúa Nguễyn thì đến nàgy tế giao đêm 30 , mùng một tết âm lịch cùng bá quan văn võ ra đền Nam Giao mà tế tạ ơn trời đất và chư Thần linh của núi sông . Ở mỗi tỉnh thành có đền miếu thờ Thần , ỏ mỗi làng đều có đình làng là nơi hội ban hương chức , hội tề lo việc cúng Thần thật trang nghiêm cung kính ( Đọc thêm văn hóa làng và triết lý cái đình của Kim Định và các sách của Sơn Nam nói về văn hóa phong tục lễ hội phương Nam cho rõ hơn )

Ở đây chúng tôi không tiện đi vào chi tiết chỉ nê lên cái tinh Thần của Thần đạo chính thống của dân tộc Việt . Khi thờ Thần , người xưa vì chịu ảnh hưởng của văn hó Trung Quốc , Ấn , Hồi , nên vẫn thờ chung chạ các Thần linh của ngạoi nhân làm Thần của mình , như thờ Quan Công hay Thiên Y A Na Thánh Mẫu . Người Việt từ đời Bắc thuộc khi hai Bà Trưng khởi nghĩa thắng lợi , lên ngôi xưng Trưng Nữ Vương , về sau thất bại vì bọn giặc tàn bạo Mã Viện , nên nhảy xuống giòng sông Hát ( Hát Giang tự trầm ) , các nữ tướng như bà Lê Chân , Bà Triệu … và trước đó c1c nữ kiệt như Lầu Bảo Hoa , Nhì Bảo hoa đều được người dân mất nước tôn lập đền thờ .

Quân Tàu muốn đồng háo thì người dân dùng tiếng Việt của mình kể cho nhau nghe các truyền thuyết về Thần Trụ Trời , về các vị Thiên Thần sông núi linh thiêng của Việt tộc , về công nghiệp của Hai Bà Trưng , Bà Triệu và các vị binh tướng anh hùng hào kiệt hy sinh quên mình chiến đấu dành độc lập cho Tổ quốc (Tổ quốc là Tổ quốc từ vua Hùng lập ra ) . Nước có Tổ là Tổ Hùng Vương chứ không phải tinh thần quốc gia như La Mã Hy Lạp cổ đại . Phong tục nghi lễ tôn thờ Tổ quốc thiêng liêng Tổ Tiên - Tổ nghệip đời đời vinh hiển cũng được tôn thờ . Giặc Tần , Hán , Minh , Nguyên, Thanh từ phương Bắc tàn bạo sang xâm lược giết hại vô cớ , tàn phá lăng miếu , đình làng , chúng không cho thờ Thần linh của dân tộc thì người dân thờ ở trong lòng mình , như dùng cổ tích , Thần thọai truyền thuyết mà kể , mà dạy cho con cháu , giống nòi Hồng Lạc , từ một bọc sinh ra , tôn kính Tổ Mẫu , lập đền thờ Mẫu là Âu Cơ . sự tôn sùng ấy chẳng khác nào Thiên Chúa Giáo tôn thờ Đức Mẹ Maria .

Nhớ lại các nữ tướng , binh sĩ của ta trong thời kháng Tần , Hán , một khi giặc phá đình miễu , thì từ tướng , binh , dân , một lòng cho lập ra bàn thờ chỉ vuông vức chừng 5-6 tấc tây rồi đặt lư hương thờ Trời Đất , gọi là bàn thờ Thông Thiên . Còn nếu chúng đập phá hoặc lấy bát nhang , lư hương thì chỉ chốc lát sau người dân Nam lại lập bàn thờ khác như cũ .

Đó cũng là một hình thái kháng chiến với một tinh thần hữu thần tinh vi nhất của người Việt .

Chỉ vỏn vẹn một bàn thông thiên mà thờ cả trời đất chư Thần cả vũ trụ hiển linh trên đó , giặc Tàu không thể làm chi được . Bàn thông thiên đặt ở trước sân , hiên , vườn , nơi thanh sạch nhất trước nhà .

Nhà Phật có thuyết giảng về núi Tu Di , khi thời cao lớn sừng sững giữa lưng trời , khi thì biến thành hạt cải , thu hình kín đáo . Với Bàn thông thiên thờ trời đất của Thần Đạo Việt Nam cũng vậy linh thiêng , huyền bí , diệu kỳ .



IV. THẦN ĐẠO VIỆT NAM TRÊN DÒNG LỊCH SỬ :



Dù nước mất nhà tan nhưng huyết thống bất khuất , nhân tài , hiền đức của Việt tộc thời nào cũng có . Hễ có giặc là đánh giặc . Các vị Thần của ta trong thời Bắc thuộc rất nhiều . Tất cả là do lòng dân yêu quý mà cùng lập đình miếu tôn thờ , khi các vị đã thác . Các vị có danh thơm trong lịch sử nào Lữ Gia , Lầu Hoa Bảo Nhì Bảo Hoa , Hai Bà Trưng và các nữ binh tướng , Bà Triệu Ẩu và Triệu Quốc Đạt , đến thời kỳ Mai Thúc Loan , Phùng Hưng . Bằng tất cả hào khí đã khởi binh làm cho bại tướng nhà Đường – Quang Sở Khách khiếp sợ trốn chạy về nước . Anh hùng hào kiệt nơi nào , làng xã nào cũng xuất hiện .

Người Nam có câu ‘’ Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh ‘’ Bao nhiêu bà mẹ , bao nhiêu bà chị , bao nhiêu người vợ đồng tâm hiệp sức cùng chồng con chiến đấu gìn giữ quê hương , trong những lúc quốc nạn ngàn năm này . và ở tất cả đình , đền , miếu đầu có thờ các vị Thần là những anh hùng dành độc lập nổi lên từng thời kỳ trong suốt ngàn năm bị Tàu đô hộ .

Đó là nền tảng của văn minh Đại Việt , đó là văn hóa Thần Đạo Việt Nam .

Thần Đạo Nhật có khỏang 2000 năm trở lại . Thần Đạo Việt Nam từ thời lập quốc đã năm bảy ngàn năm qua .

Đạo lý trường tồn , văn hóa vĩ đại , tín ngưỡng Thần Minh giữ nước đến tận ngày nay , sao gọi là không có đức tin chính thống .

Thần Đạo Việt không cực đoan mà trái lại bằng một tinh thần hòa hiệp rất cao cả thiêng liêng với tinh thần ‘’ bao dung thể ‘’ đã cùng các tôn giao truyền thống vĩ đại cao siêu như đạo Phật , thiền tông , đại thừa , tiểu thừa , đạo Khổng , đạo Lão . Cả ba tôn giáo này lập thành Tam giáo đồng nguyên . Thần Đạo Đại Việt ở ngôi chủ thể hòa đồng xây dựng nên nền văn hóa truyền thống đã mấy ngàn năm qua . Đến thời đại Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán lập nền tự chủ dài lâu . Đó là thời kỳ hưng thịnh và thành tựu lớn lao của Thần Đạo Việt Nam . Thời kỳ độc lập tự chủ , nền độc lập tự chủ được lập lại thì văn hóa phát triển , dinh , đình , đền , miếu , lăng ẩtm được trùng tu , đến Quốc Tổ Hùng Vương được trùng tu lớn lao hơn .

Từ các xóm – thôn – làng –xã , những ngôi đình biểu trưng của nền văn minh Đại Việt đều được kiến trúc tôn tạo xinh đẹp hơn .

Đất Đại la , thành đại la do Cao Biền xây lúc làm Tiết Độ Sứ của giặc Tàu được đắp lại . từ đó gọi là Đông Đô rồi đổi dần đến khi Lý Công Uẩn dời đô về đặt tên mới là Thăng Long Thành , Tức vận nước đã lớn đã vững bền , có rồng vàng là vật linh xuất hiện .



         Hoa Lư Tam Cốc
              Đền Cổ loa








Lại có thành Bạch mã . Đắc địa , linh thiêng được vua đến dân Nam xây đắp thành lũy vững bền . Từ đó có Thăng long Tứ Trấn , bốn vị Thần , bốn ngôi đền Thần Đạo được đắp lên trấn ở bốn phương thành Thăng Long .

Đó là Đền Trấn Võ , Đền Bạch mã , Đền Kim Liên , và Đền Phù Đổng Thiên Vương .



Đền Quan Thánh                                                                  Đền Bạch mã










   Đền Kim Liên                                                     Đền Phù Đổng Thiên Vương


Bốn Vị Thần trấn bốn phương , về trung có trục Thần đạo . nền tảng đức tin chính thống đã rõ ràng trước muôn dân từ thời Trung cận sử đến nay . Tại sao người ta cứ bảo là dân tộc Việt không có đức tin chính thống , không có đạo chính thống ? Điều này phát nguyên từ những người mang nặng tư tưởng lệ thuộc văn hóa Phương Bắc , văn hóa ngạoi bang mà quên hết cội nguồn dân tộc đi mất ! Nói như triết học hiện đại thì đó là một tinh thần tha hoa bị phóng thể không có chút giá trị gì trong tinh thần Đại Việt cả . phải trở về với cội nguồn dân tộc , một cách quang minh chính đại , từ bỏ tất cả những gì cặn bã của ngọai lai và dung hợp , trao đổi với các nền văn hóa văn minh hiện đại của nhân lạoi là điều quan trọng nhất của người Việt ngày nay vậy . Trong hệ thống từ triết lý – văn hóa – đạo học chắc phải giải trình ra bằng muôn ngàn trang sử về Thần Đạo . Nào kinh sách Thần Đạo , nào tổ chức lễ hội , nào nhân sự trong miếu đền ở làng ax4 . Mỗi nơi một sắc thái văn hóa , từ miền núi thượng du Bắc Việt vùng lạng sơn , Cao Bằng thờ Thần Đinh Công Chất ( Điện Biên ) cho đến đền thờ Lăng Ông Bà Chiểu là nơi Tả quân Lê Văn Duyệt ở sài gòn và vùng Long Châu có đền thờ ngài Thọai Ngọc Hầu Nguyễn Hữu Cảnh … thật phong phú .

Thành Hà Nội còn đền thờ tướng Hòang Diệu – tướng Nguyễn Tri Phương . Vùng hậu Giang có đền thờ Nguyễn trung Trực và chiếc chiếu Tà Niên .




                                                     ( Chiếu tà niên - từ                                  )






Vô số đình miếu nơi nào cũng có đình thờ Thần linh . Có nhiều tỉnh , nhiều làng , mỗi nơi có 1 hoặc 2 , 3 đình thờ Thần ( riêng Sài gòn – Gia định có đến 300 ngôi đình thờ thần ) . Đó là nơi tôn thờ danh nhân lịch sử , là Thần Đạo Việt Nam . Thần Đạo Việt Nam không chỉ giới hạn trong nền văn minh nông nghiệp lúa nước , nói như thế là một sai lầm lớn không có gì bằng , những cuộc đấu tranh giành độclập với người Trung quốc , nếu không có tư tưởng thần minh , nếu không có tinh thần tự ái dân tộc và nhất là tinh thần yêu Tổ quốc giống nòi Hồng lạc trên trước thì làm sao có đủ ý chí chiến đấu và nếu không vì tiền đồ của dân tộc , không vì tổ tiên , không vì đức tin Việt đạo mà trong đó Việt Đạo là tinh thần quan trọng , là thái độ lớn . Không tin vào trời đất và thần linh hộ trì mà chiến đấu mất còn với kẻ thù thì làm sao tạo được những chiến công hiển hách , thần thánh đến thế !.

Tinh thần ấy phảng phất trong câu thơ đầy niềm tin ở lẽ trời của nhà thơ Vũ Anh Khanh :

‘’ Trời hộ người trai trẻ thành công ‘’

Vả lại thời đại Hùng Vương 18 đời đã tổ chức vững vàng như một triều đình có vua ,quan văn võ , Lạc hầu , Lạc Tướng , có binh quyền thủy quân , có bộ binh dũng tướng và các hòang tử luôn chinh chiến . nhất là danh dự người Lạc Việt , danh dự một nước có văn hóa văn hiến không kém gì Tần – Hán , một nước có văn hóa Thần Đạo vĩ đại thờ Trời Đất chư thần như Hy Lạp cổ đại biết trọng Tổ quốc trong thần thọai .

Vượt xa khỏi phạm trù ấy , ý chí Việt tộc đã được rèn luyện trường kỳ như lò luyện thép của hào trưởng Lê Lợi , một chiến lược gia ở Lam sơn , và một nhà văn hóa vĩ đại Nguyễn Trãi , hay binh cơ thao lược như các danh tướng Lí Bí , Mai Thúc Loan , Ngô Vương Quyền những tài thần dũng khí sách lược và nhất là phải có tinh thần :

‘’ Nam quốc sơn hà Nam đế cư ‘’

Của đền thần Trương Hống bên sông Như Nguỵêt , với tài thần thi của thần tướng Lý Thường Kiệt , nếu không thì mỗi cái văn hó lúa nước chẳng thể nào làm được gì cả trong những trường hợp đặc biệt này .

Tất nhiên là phải có những bậc hiền tài phát xuất từ nhiều tàhnh phần khác nhau trong xã hội nhưng phải tự học , tự trảai nghiệm , phảai có dũng khí , vượt qua chính mình . Phảai là những sĩ phu có tâm – tài mới cùng chung gánh vác được việc nước , tô bồi , giữ gìn nền độc lập dân tộc trong thời đại mới .

Ngày xưa . mỗi lúc xuất binh đi đáng địch có tế cờ , có cáo với hòang thiên hậu thế . Có thần chiến thắng oai linh như Thần Đồng Cổ bảo hộ , có tiếng trống đồng Đông Sơn thúc quân thời Thục Phán đánh quân Tàu , có Thần Chiến Thắng là Thần Kim Qui xuất hiện cho móng rùa vàng để chế nỏ Thần đuổi giặc ( Ông Cao Lỗ là vị Thần chế ra nỏ Thần Kim Qui đáng quân Tần ) . Vì Thục Phán chiến thắng Triệu Đà nhiều phen nên khinh giặc , lại để mất nỏ thần , mất sự linh thiêng huyền bí đến nỗi bại vong vì đứa con gái ngu khờ , làm nội gián vô tình cho gián điệp của địch là nàng Mỵ Nương và tên Trọng thủy lừa đảo dối trá . Cuộc chiến tranh Nam Bắc thắng bại liền liền chứ nào phải do văn minh lúa nước mà chống nổi giặc mạnh ! Thật lý luận kia đáng buồn cười ! .

Chiến đấu bảo vệ Tổ quốc là cái đạo giữ nước của bậc anh hùng hào kiệt , của Thần Đạo Đại Việt từ ngàn xưa chứ đâu vì mấy bụi lúa ngô hay tình làng nghĩa xóm mà đuổi giặc được .

Giặc vào nước ta cướp phá xóm làng , đào mồ cuốc mả , đốt nhà phá lăng miếu , giày xéo linh vị , quật ngã Cờ Việt , dẫm đạp lên danh dự tổ quốc giống nòi Hồng lạc , hãm hiếp vợ con , chặt đầu ông lão , quết trẻ thơ , vơ vét của cải vì thế dân ta nổi máu căm hờn quyết chiến với giặc dành lại tự do , độc lập cho giống nòi , lấy lại danh dự cho Tổ quốc . Đó là huyết thống ngàn năm nổi lên chống giặc .

Vua quan nhà Trần bắt được tướng giặc đem về làm lễ tế hiến phù trước lăng miếu tổ tông . Tòan dân nhờ có Thần khí anh linh chiến thắng giặc thù . Nếu không có văn minh Thần Đạo thì khó lòng tổ chức kêu gọi kháng chiến được . Ngày nay người ta còn nói : Cuộc kháng chiến Thần thánh đó , không phải sao ? Đó là văn háo Việt , có Thần Đạo mới có đình miếu thờ quốc tổ Hùng Vương . Mới có đình miếu thờ Thành Hòang bổ xứ . có đình miếu mới có sắc phong và hằng năm , mới có lễ hội cúng Thần . Như thế tại sao gọi nước Nam không có tín ngưỡng chính thống ?



                                               ( Lễ  Hội Đền Hùng - từ                              )







Có lễ hội mới có văn hóa làng xã . có đình mới có văn hoá đình . Có đời sống mới có sự qui tụ đông đúc sinh họat rộng rãi , có đình mới có lễ hội và nếp sống văn hóa dân tộc , có văn hóa dân tộc là Thần Đạo mới có sự tôn trọng tổ tiên đất nước .

Có tôn trọng tổ quốc mới biết sỉ nhục khi mất nước . mất nước thì mất cả danh dự của Tổ quốc giống nòi trước cái vạ diệt vong và thống trị . Như thế đủ thấy văn hóa cái đình , văn hóa Thần Đạo sâu xa kỳ bí như thế nào .

Trong nền văn minh Thần Đạo không chỉ có thờ Trời Đất , Thần Linh mà nền văn hóa đó tiềm ẩn một đạo học vô bờ bến . Đó là tinh thần viễn kiến nhìn xa thấy rộng , của các bậc hiền àti để giữ nước , như thời Vua Lê Chúa Trịnh , trịnh kiểm chuyên quyền , giết Nguyễn Uông là anh Nguyễn Hòan ( Em vợ của Trịnh Kiểm ) Nguyễn hòan lo sợ đến lượt Trịnh kiểm hại mình , không biết nương tựa vào đâu , bèn đến thăm hỏi cụ Trạng Trình , nhà tiên tri chỉ nói : Hòanh sơn nhất đái , vạn đại dung thân .

Nguyễn Hòan hiểu được và xin vào trấn thủ Thuận Hóa xa nơi hang hùm nọc rắn . và đã lập nên sự nghiệp lớn . Nở rộng đất phương nam đến Mũi Cà Mau nàgy nay .

Còn Nguyễn Huệ ‘’ áo vải cờ đào ‘’ lúc ra đánh quân Thanh ở thành Thăng long , có thỉnh ý của bậc đại thánh hiền La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp , người bảo với Nguyễn Huệ là chuyến đi đó thành công lớn .

Nhưng đến khi Nguyễn Huệ cho mời giúp việc chính sự thì La Sơn Phu Tử bèn từ chối nhiều lần .

Có hai lý do , thứ nhất cụ đã tiên đóan Thấy được Nguyễn Huệ tuổi thọ không bền . thứ hai thấy nhà Tây sơn chưa thành mà anh em đã bất hòa , và có lẽ cụ thấy xa hơn nữa công nghiệp lớn của Vua Gia Long và các tướng nhà Nguyễn Gia Long sau này sẽ thống nhất nước nhà.

Đó cũng là do trong văn hóa Thần Đạo có một phạm trù tối cao là viễn kiến , là tiên tri , la học rộng nhìn xa biết rõ thời thế như các cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm , La Sơn Phu Tử vậy . Nền văn hóa Thần Đạo tiềm ẩn vô số công nghiệp phi thường của các bậc hiền tài danh tướng suốt dòng lịch sử trừơng tồn của dân tộc chứ không đơn điệu .









THẦN ĐẠO VÀ VĂN HÓA VIỆT



Như sử đã chép , vua Hùng dựng nước xưng là Văn lang . xưng như thế cốt để giương oai đức về một nứơc đã có văn hóa , đạo đức , tri kiến của dân tộc đã đạt đến trình độ ngang tầm với ácc nền văn hóa khác .

Cả thời Thục Âu Lạc các tước vị trong triều đình đều có khác với các nước , nhất là Trung Quốc . Tầng lớp quan lại là Lạc hầu , Lạc tướng ( Lạc là Lạc Việt ) . Xin nhắc al5i .

Các con vua , quan thì gọi là quan lang , con gái gọi là Mỵ Nương . Khi quân Tần , Hán xâm phạm cai trị đồng hóa nước Văn Lang . Đến thời Bà Trưng khi thắng quân giặc ( Tướng Tô Định chạy về Tàu ) ) lập nước Việt , Hai Bà đã phong cho mẹ là Trần Thị Đoan là Man Hòang Hậu , phong nữ tướng Lê Chân làm Thánh chân công chúa , Nữ tứơng Vũ Thục Nương làm Bát nàng ( Năm ) công chúa … ( xem văn hóa Việt Nam đỉnh cao Đại Việt ) .

Khi Lý Bí đánh đuổi quân Lương lập nước Vạn Xuân ( năm 544 Lý Bí xưng là Hóang đế , lấy niên hiệu là Thiên Đức , có sách chép là Đại Đức ) dựng triều đình . triệu Túc được phong là Thái Phó . Tinh Thiều làm Tướng Văn , Phan Tu làm tướng võ , xây dựng điện Vạn Thọ làm nơi văn võ bá quan triều hội , đúc tiền đồng để tiêu dùng trong nước , đây là tiền đồng đầu tiên ở nước ta ( Nguyễn Đăng Duy )

Tuy có tiếp thu văn hóa chánh trị của Trung quốc nhưng vì quyền tự chủ và danh vị nước Việt , đã được nêu cao nên không nhường một tấc danh àno của nước ta cho tàu . và đồng thời để đề cao tổ quốc Việt ngang àhng với nước Tàu , đến lúc lớn mạnh nhất mới xưng là Đại Việt . Sách văn hóa Việt Nam ghi : ‘’ Đến Đạo giáo người Việt vốn có tín ngưỡng Thần linh từ thời nguyên thủy , bộ lạc nên dễ dàng tiếp thu tư tưởng đạo giáo ‘’ ( Nguyễn Đăng Duy ).

Tư tưởng đạo giáo nếu truy nguồn cội thì Lão tử ở phương Nam thuộc giòng Bách Việt , cũng là sắc dân tộc Việt vừ thích hợp với Người Việt , vừa vận dụng tư tưởng Thần Đạo Việt nam , cùng tư tưởng Lão giáo để chống lại giặc .



VĂN HÓA THẦN ĐẠO VÀ DÒNG SỬ VIỆT



Trong thời đại Lý – trần văn minh Đại Việt có tổ chức vững ạmnh . với quan niệm vua là chủ muôn dân . dân al2 nước . về mặt tôn giáo thời Lý có nhiều vị sư được tôn là quốc sư . Thời Trần Nho thịnh thì các kỳ khảo hoạch thi cử chọn nguyên khí quốc gia , các người có học , có đức hạnh trong tôn thất triều đình được chọn làm quan .

Văn minh nông nghiệp phát triển và trong tay vua chúa triều đình , nhưng dân được nhiều quyền lợi về thuế má và đời sống ổn định hơn . Quan niệm Thần Đạo thờ Trời Đất – vua là con dân của Mẹ Đất Cha Trời , toàn dân là anh em một mẹ Âu Cơ sinh ar – nên việc điều tiết xã hội đất nước trong thời phong kiến tập ấm có tình nghĩa đối với cái lợi sinh tồn – tồn vong của tòan dân tộc .

Thời Trần các con cháu của vua nhà Trần đều là người thống lĩnh binh nhung xông pha chiến trận lập nên đại công nghiệp , chứ không phải như cương tôn , công tử Tàu gặp giặc Mông Cổ tràn đánh là đã lo việc qui àhng ,. Khóc lóc và trốn chạy – như hời nhà Tống !

Tinh thần đặc biệt của Thần Đạo Đại Việt có bậc kỳ nhân trong thiên hạ .

Bậc kỳ nhân là người hội đủ tính khí của thêin àti – đạo đức của Trời Đất .

Đạo Khổng có Thánh nhân

Đạo lão có Chân nhân

Niezsche có Siêu nhân

Phật có Bồ tát

Thần Đạo có kỳ nhân

Đó là các bậc siêu phàm vậy .



Tinh thần từ Lê Đại Hành thắng quân Tống truyền sang đời Lý – dẫn đến đời Trần bao nhiêu chiến công lập được đều do đức tin Thần Đạo cả ( Thần Đạo Đại việt khá gần gũi với Thần Đạo Nhật – nhưng không chịu ảnh hưởng nhiều của Phật như Thần Đạo Nhật )

Từ Thần Thi ‘’ Nam quốc sơn hà nam đế cư ‘’ của Lý Thường kiệt đến đời Trần Thái Tông – Trần Bình trọng đến Trần Hưng đạo Vương đều có quyết tâm của người anh hùng hào kiệt chống giặc bảo vệ Tổ quốc . Kéo cờ Đại Việt đánh đuổi quân thù bạo nhất thế giới ( thời này ) . Vào hội nghị Bình Than , Hội nghị Diên Hồng khích động lòng dân đánh giặc là ở sự đòan kết già trẻ một lòng , dân nước Việt một mẹ sinh ra , lòng tự hào dân tộc , ý chí Lạc Hồng là trên hết . cho nên giặc mạnh cũng phải thua . Tư tưởng Đại Việt từ Vua đến tôi , từ dân đến quân , từ già đến trẻ , không phân biệt giai cấp , tòan ý tòan tâm phá giặc là sự kiên cường , kỳ công , thần dũng vĩ đại không có gì sánh bằng . Mỗi lần xung trận tiếng trống đồng đánh vang lên inh ỏi như thiên binh thiên tướng phá giặc . Quân Mông Cổ nghe tiếng trống từ xa đã bỏ chạy khiếp hồn lạc phách .

Đó là oai linh của chiếc mũ đầu mâu gắn móng rồng của Triệu Quang Phục – một lão tướng thời Lí Bí , cái tinh thần Đồng Cổ của Thần Chiến Thắng , cái oai lực nỏ thần của Thần Kim Qui , như muôn đời vẫn theo hộ vệ giúp dân , giúp nước , đánh bại giặc thù . Tinh thần dũng khí ấy là của Thần Đạo Đại Việt chứ không ai khác . thiển nghĩ chúng ta cần thêm những cơ sở suy luận về Thần Đạo Việt Nam hơn cho nó có vẻ ‘’ hợp lý ‘’ trong khi người ta cứ tìm cách văn minh để phán đóan thần thọai và Thần Đạo . Qua vài đọan văn lý luận trích từ quyển ‘’ Lịch sử Tư tưởng Văn hóa Việt Nam ‘’ của giáo sư Nguyễn Đăng Thục ( có lẻ được biên tập lại cho hợp thời ) đơn giản thôi – từ tín ngưỡng dân gian sinh ra Thần thoại – từ Thần thọai sinh ra tôn giáo . Tín ngưỡng dân gian Việt Nam là tín ngưỡng vạn vật ư linh , siêu huyền mầu nhiệm và liên quan trực tiếp đến đời sống con người ‘’ Thuyết vạn vật đồng nhất ‘’ đưa đến suy luận ‘’ đồng qui thù đồ ‘’ – tất cả đều đi về một con đường – trên đỉnh núi cao nhất – đó là Tạo hóa – ông Trời Việt Nam – chủ Thần linh ở thượng giới , chủ Thần ở Hạ giới , ở cõi âm và cõi dương - ở gần , ở xa đó là tâm linh siêu việt – siêu việt hiện hữu khắp nới , ở cả hai văn minh và cái duy nhất – cai tối thượng là Ngài Tạo háo – cái thiên lý của Ngài bao trùm khắp nơi và ở giữa lòng người – thiên lý tại nhân tâm – đạo Trời từ lòng người thiết lập ra - Thần Đạo Việt nam từ ngàn xưa khởi nguyên từ đó . và đó là tín ngưỡng vĩ đại từ siêu nhiên đến siêu hình – siêu thực của thế giới tâm linh . Biểu hiện lên cái ‘’ ánh sáng minh diệu ‘’ chan hòa cả sông núi , và trường tồn bất diệt .

Thời gian , không gian có thay đổi biến ảo nhưng tốc độ của ánh sáng bất di bất dịch (tương đối thuyết – Albert Einstein ) . Ánh sáng của năng lượng vật chất theo vật lý cũng tương ứng và mầu nhiệm như động lực của Tạo Hóa – như nhiên năng của Lão Tử .

Trong thánh kinh cũng kể - Tạo Hóa xây dựng ra vũ trụ trong 7 ngày . Ngày đầu tiên là ánh sáng .

Học thuyết khoa học còn ghi – nguy6en tử vật chất không sinh ra và không diệt mất bao giờ cả . Tương đối luận Al.Einstein . Nếu ta căn cứ vào lý tuyệt đối – vào quyền năng đấng tạo hóa và khoa học thì vấn đề vĩnh cửu hòan tòan hợp lý . Nhưng trân bình diện tinh thần sự sống động của hiện tượng giới vô cùng huyền ảo và sinh biến vô tận , lý luận mãi chỉ khôi hài hơn là viết một câu thơ hiện đại hóa Thượng Đế :

Thượng đế người đệt vải

Quăng thoi nhật nguyệt sầu

( Trần Tuấn Kiệt )

Không chỉ có tôn giáo – mà vạn vật ư linh huyền nhiệm nhờ sự linh cảm , cảm thông đã tạo ra thông đạo đến Trời . Đó al2 nguồn gốc , là bản thể là tuyệt đối của tư duy con người .

Trời kia đã bắt làm người có thân

Bắt phong trần phải phong trần

Cho thanh cao cao mới được phần thanh cao .

( NCT )

Thế giới Âu Châu , tư tưởng có sáng suốt , minh triết thông thái tột cùng cũng không có tài nào ‘’ nhìn cái núi Tu Di có lúc biến thành hạt cải ‘’ thấy ‘’ một Mặt Trời gỉa dáng một vì sao ‘’ ( thơ Chế Lan Viên )

Hay cảnh trần gian quả thật là nơi huyên áno vô cùng của Thần Linh vạn vạt – siêu háo hiện tượng giới , lý giới người Việt đã mở rộng tâm hồn – tâm linh mà cảm thông với tất cả vạn hữu sinh linh trong đời .

Chỉ có đức hiếu sinh của trời mới hát lên được bản đại hòa ca Mưa nguồn như Đại triết gia thi sĩ họ Bùi – cái đức của Trời đất ở tận căn để của linh hồn con người – dù cho tâm hay vật , dù cho duy linh hay duy sinh tất cả chỉ có một con đường đạo thể , con đường chân lý tối cao của nhân lọai – là Thần đạo Việt Nam mà thôi .

Ông Tạo Hóa của Việt Nam – Đấng Ch1i Tôn Thần đạo Đại Việt không ngồi ở nơi cửu ngũ chín tầng trời , mà rất gần gũi với nhân gian – với người thôn quê dân giã . Trong câu chuyện ví von sau đây ‘’ Ông Trượng – Tiên Bửu ‘’ . Ông Trượng là vị tiên hóa thân thành lão già sọm , đến ghẹo cô Tiên Bửu ( nàng tiên tuyệt trần gian ) . Tiên Bửu mắng rằng :

Ông già kia ! hỡi ông già

Cái răng ông rụng tôi mà chẳng ưa !

Ông Trượng cười đáp :

Già thời già mặt , già mày

Cắn rứt chi đó bậu này … hàm răng !

Tiên Bửu kiêu kỳ :

Thân tôi như cái giường ngà

Thân ông như manh chiếu rách --- người mà nằm trên

Ông Trượng đáp :

Vái trời cho gió thổi lên

Cho manh chiếu rách nằm trên giường ngà !



Truyện cổ dân gian nhiều lắm về ông Trời việt

Trông trời trông đất trông mây

Trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm

Sự mong cầu của anh nông dân , anh thợ vườn đầu tiên , cũng là mong cầu ở Ông Trời !

‘’ Trời yên bể lặng mới an tấm lòng ‘’

Nhớ người Việt gọi là Trời – là niềm tin tối cao tối đại , tối linh của con người – và rất gần gũi như Cha Trời Mẹ Đất – linh diệu khôn cùng .

Xin đừng quan niệm Trời là nguyên lý tuyệt đối theo triết học duy tâm , trời là Đấng Tạo Hóa như thượng đế của các tôn giáo khác .

Trời ở khắp càn khôn vũ trụ sinh hóa ra vũ trụ và ở quanh quẩn bên ngừơi điều tiết mọi sinh họat con người – qua các vị Thần ở hai bên vai - ở trong nhà như gia Thần - Thần bếp - Thần lửa – Thổ Địa - Thần canh cửa - Thần giữ nhà ( Mường còn có Ma xó giữ nhà rất linh ) . Mọi sinh họat chân thực hiện hữu linh diệu sôi động biến ảo khôn cùng

Huy cận chỉ ghi :

Thu trong cái ngáp dài vô tận

Hình ảnh lung linh vũ trụ tàn

Đó là hiện tượng giới linh thiêng huyền diệu bất chợt lúc nào cũng hiện tồn quanh chúng ta .

Vì thế gọi Thần Đạo là đạo trời của dân tộc Việt Nam từ khi mới có tư duy của ngừơi Việt , từ vạn cổ đến nay vậy .( Thần Đạo chủ trương : Thế giới tương thân – tương ái – tương trợ - tương đồng gồm bao dung , hòa hợp , điều tiết , sinh tồn )

Cầu Trời cho các cụ Lý đừng hàm hồ , mãi lãi nhãi luận bàn vô lý ! Vì Trời ở khắp mọi nơi chứ không chỉ ở thêin đình như Thượng đế Tàu – cho nên lòng trời cũng là lòng người Việt – đạo trời cũng là đạo người – thiên nhân thần đạo

Trong lời nói , và đời sống thường ngày chữ Thần và chữ Trời hay tiếng gọi từ cửa miệng ngừơi Việt Nam liên tục phát ra – Trời Phật ơi ! Trời đất ơi !Trời Đất Quỷ Thần ơi !

Con gà Thần ( gà đá thắng độc đáo luôn )

Con cá Thần ( cá hóa rồng ) con trâu Thần – vẻ đẹp Thần thọai – hay cảnh đẹp Thần tiên (Thần đi với Lão trang ) hay trận đánh Thần táhnh (Thần đi với Nho ) Nói về ban nhạc lửng lẫy , đó là White Stripe có tên là Jack White , một tờ báo mới viết ‘’ ban nhạc Sọc Trắng với chiêu thức Thần kỳ .

Đủ cảm nhận ra rằng tên gọi Thần là biểu tượng của chân , thiện , mỹ tuyệt đối Thần linh cùng sống chung với con người , con người cũng là Thần, khi sáng tạo ra một nghệ thuật gì danh tiếng nhất , cao quý nhất – như danh họa Nguễyn Trung xuất thần vẽ lên bức họa chân dung phụ nữ Việt nam , (bức danh họa này do luật gia Nguyễn Hữu Dõan giữ ) và các danh họa bậc thầy của hội họa Việt Nam hiện đại như Mai Chưởng , Hồ Hữu Thủ , thân Trọng Minh … hay khi nhận xét về người họa sĩ tài hoa Pạhm cung qua tác phẩm ‘’ Buồn vào hồn ‘’ , một nàh phê bình đã viết ‘’ Phạm cung đã thần tình đưa linh hồn vào vẻ đẹp của người phụ nữ , đã thổi vào đó một luồng sinh khí , trường mộng siêu hình của thế giới thi ca và hội họa ngày nay ‘’. Các thi sĩ Bùi giáng , Phạm thiên thư , phạm Hòang đều có thơ đề tặng tranh Phạm Cung và Phạm tường với ‘’ Buồn vào hồn ‘’

Mặt môi gợi thức hư không

Huyễn màu lóang đục pha sương cõi ngừơi

Vầng trăng ảo mộng luân hồi

Lạ nghe tiền kiếp buồn trôi vào hồn .



Văn minh Thần đạo của người Việt không chỉ hạn hẹp ở nền văn hóa Đông Sơn đúc đồng mà biểu thị ở rất nhiều trong văn , thơ , họa , chạm , khắc và gốm sứ , nhất là từ thời kỳ đồ đá đến nàgy nay .

Kháng chiến thắng Nguêyn – Mông , vua Trần Nhân Tông viết mầy câu Thần thi :

Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã

Sơn hà vạn cổ vững kim âu

Các Thần vật như ngựa đá , voi đá trong cuộc tiến đánh quân Nguyên , nàh vua cũng thấy voi ngựa này đổ mồ hôi trong trận mạc .

Các con chó đá , ông phỗng đá , cnah giữ kho tàng , miếu đình rất thân thương của người bình dân đất Việt . Có miếu thờ Cẩu nhi cũng vì lý do đó .

Cho nên bản chất của con người là Thần tính – rất tự nhiên mà thôi . sự vĩnh cửu vĩnh hằng là ước vọng của con người – sống lâu trăm tuổi – Con người thọ như cây thiên tuế , cây tùng , cây bách , cây si , cây thông , có hàng ngàn năm tuổi .

Ý hướng trường cửu đó người Việt đã đưa thành một thứ đạo lý tôn trọng chữ thọ như trời đất . Muốn được tuổi thọ cao thì giữ đạo làm người sống ‘’ vô sự ‘’ như cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm

Chữ rằng vô sự - tiểu thần tiên .

Muốn được phúc thọ thì không gì bằng ‘’ vô sự ‘’ – đạo Thanh Nhàn . Không những vô sự mà còn không coi trọng cả cái thân quý giá , cái mệnh của mình như Nho gáio – Đạo lão – trang sinh ra ở vùng Bách Việt – có Quảng Đông , Quảng Tây , Vân Anm – đó là vùng cai trị của Triệu Việt Vương – của vị vua Việt cháu Triệu đà – mẹ Việt nam – và nhóm Lữ gia chống lại Nhà Hán . Đó là vùng đất lĩnh nam xưa của Việt tộc từ Thục phán An Dương Vương đến vị vua cuối cùng của họ Triệu . Ngừơi Việt có nền văn hóa Văn lang sau thời Bắc thuộc , nàh nước Văn Lang và các dòng họ dựng nước Nam bị Tàu đô hộ , tiêu diệt mưu đồng hóa , chữ nghĩa mất , nước mất , làng còn Thần linh và Trời đất núi sông vẫn tồn ạti trong lòng dân tộc , ngày đêm phụng thờ và cũng với tinh thần chiến thắng mà lập lại được nước – dựng được nền độc lập . đó là tinh thần tự chủ chiến thắng như Thần Đồng Cổ - thần Kim qui v..v.. và nhất là các vị thần ( Thành Hòang ) được thờ trong đình miếu Việt Nam .

Văn minh nông nghiệp hình thành làng xã –( ngày nay ở kinh đô lập đàn xã tắc –xã là đất , Thần tài là lúa )

Làng xã bền vững là do có Hương ước và tính tự quản bền chặt . Thay đổi bao al62n đã thất bại .

Văn hóa đó nhà nghiên cứu gọi là văn minh đình miếu – thờ thần làng theo quan niệm trọng Thần của dân tộc . Giặc nào cướp phá , quan trọng nhất là đình miếu , nhưng có khi giặc không dám động đến .

Đó là nơi thờ phụng của dân , đình bị phá dân sẽ chống lại . Đình miếu bị đốt phá , tự ái và danh dự bị xúc phạm – chiến đấu một mất một còn cũng ở đấy .

Tinh Thần đánh giặc giữ nước , giữ làng cũng từ Thần đạo mà ra cả .

Mặc dù 1000 năm lịch sử đen tối với một sách lược đồng háo triệt để , người Việt mất ảc chữ viết ( Khao Đẩu ) , tiếng nói đất nước , làng xã vẫn còn – quan trọng nhất là đạo lý từ tâm linh lúc àno cũng sôi trào thành những hình thái chiến đấu đuổi giặc và xây dựng tổ quốc .

Có hòa nhập với tam giáo – thì Tam giáo – Phật – Lão – Khổng cũng trở thành Nho Việt – và Thần Đạo vẫn là trung điểm phát huy nền văn minh Đại việt ngàn năm và kết thúc với trận đánh của Ngô Vương Quyền trên sông Bạch Đằng , phá tan quân Nam Hán .

Văn hóa Đại Việt là nền văn háo nấht thể đa nguyên thần – trong đó có phát triển thêm Thiền Trúc lâm ( vô sở trũ của vua Trần Nhân Tông ) – nói thêm dòng tâm linh hoằng viễn kỳ bí hơn cho đến mãi sau này đã hợp thành tổng thức luận trong đời sống tinh thần đồng đạo – đạo đồng đồng nguyên lý – đồng thể tính –tất cả đều từ cội nguồn tâm linh vĩ đại của Trời Đất mà ra – vũ trụ vạn vật đồng nhất thể - tư tưởng này kết hợp văn hóa nhân loại và nhất thống về một mối đạo lớn – đó là nền văn minh Đại Việt ngày nay .

Ta thường nói đến tư tưởng Đại hành của vua Lê ( LêHòan ) – không chỉ là một nhà vua nối nghiệp của ông cha mà ông là người dựng sự nghiệp lớn – sau khi đánh tan quân Tống ( 981) ông đã thực hiện chủ trương Đại Hành của vị hòang đế như sau :

‘’ Về vấn đề trị thủy , năm 983 vua Lê Đại Hành cho đào con sông nổi từ Đồng Cổ ( Yên định – Thanh Hóa ) đến sông Bà Hòa Tỉnh gia – Thanh Hoa . năm 992 nàh vua đã sai phụ quốc Ngô Tử An đem 3 vạn người đắp đường từ cửa Nam giới ( Thạch Hà – Hà Tĩnh ) đến châu Địa Lý ( Quảng bình ) . Năm 1003 nhà vua cho vét kinh La Cái ( Nghệ An ) . Năm 1009 vua Lê Log Đỉnh cho đóng thuyền chở người qua lại trên sông Vũ Lủng và cho đào sông đắp đường từ cửa sông Chi Long ( Nga sơn – Thanh Hóa ) đến sông Vũ Lủng .

Cũng năm đó nhà vua còn sai ‘’ phòng sát sứ hồ thủ ích đem 5 nghìn quân vào đắp al5i con đường Nam Giới – Địa Lý mà vua Lê Đại Hành cho đắp trước đây .

Bắt đầu có chính sách ruộng đất .. ‘’ đó là công nghiệp vĩ đại của Lê Đại Hành đã tạo ra để lo việc trị thủy –an dân và làm phong phú nền văn hóa nông nghiệp xưa kia … Lúc đó chúng ta thấy rõ nền văn hóa Thần Đạo và nền văn hóa Phật giáo cùng nhau đồng nhất để xây dựng văn minh Đại việt – nhất là tự chủ trước văn hóa – chủ trương đồng hóa dân tộc ta của người Tàu bằng Khổng giáo , Nho giáo .

Chúng ta thấy rất rõ người Việt duy Thần rõ ràng , thế mà các ngài tư tưởng Âu tây , các nhà văn hóa kim cổ cứ nằng nặc cho rằng văn hóa Việt là sự đồng nguyên của Tam giáo Nho- Phật – Lão , đó là sự suy diễn hòan tòan sai lầm , nông cạn từ xưa nay . Thần Đạo Việt Nam , như Thần Đạo Nhật cũng có sự pha trộn , cũng như tất cả nền văn hoá trên thế giới nào cũng thế cả - nhưng cái cội nguồn từ lịch sử nước Văn Lang thờ Thần linh Thần Đồng Cổ - Thần Kim Qui - Thần Tản Viên - Thần sông núi … Hàng nàgn đình miếu khắp nơi thờ Thần người Việt , thế mà lý luận cà kê dê ngỗng xem ra thông thái , nhưng mà tòan chịu ảnh hưởng Nho học Đại việt đẻ ra cái tam giáo đồng nguyên đó mà mà cố tình giấu đi sự thật văn hóa linh thiêng huyền diệu của Thần Đạo Đại Việt . Nếu nói đến chữ đồng nguyên thì phải là tứ giáo đồng nguyên hay ngũ giáo đồng nguyênmới đúng .

Đời Lý Trần tuy đạo Phật có phần được vua Lý trọng đãi hơn gần như là quốc giáo , nhưng chúng ta xem lại các di chỉ , kiến trúc và đồ đất nung . Chúng ta vẫn còn thu giữ được chiếc cột có khắc hình đôi rồng cuốn song long như hình chữ S , bên dưới là nếp gợn sóng , rồng có mào như văn hóa thời Đông sơn . các tạhp và bình sứ , đất nung có các cánh sen và sen dây , trên hai cánh sen gần nhau trên một bình gốm sứ chúng ta thấy có hình mặt trăng xa xa .

Các lọai gà , rắn , chim bói cá , chim trĩ là lọai chim linh của Đại Việt , tòa táhp còn giữ in hình các kiểu chạm vẽ cung điện vương triều xa xưa nước ta .

Các đầu cá , đầu rồng biểu hiện văn hóa Đông sơn , hình chạm kỹ hà như các vạch khắc hoa văn thời Đông sơn . chứng tỏ tuy nhà vua triều đình lúc ấy trọng Phật mà Thần Đạo vẫn là dấu ấn luôn hiện hữu trong các điện đài , các đền miếu Thần Đạo . Trước đây văn minh Đại việt c1o Tháp Bút , có Nhất trụ Kình thiên biểu lộ tinh thần văn hóa Văn Lang , độc lập trước các nước khác .

Từ thơ văn của Lý Trần , của Khuông Việt đại sư đã nói lên tinh thần bảo vệ Tổ quốc Đại Việt minh bạch . Rõ rang ácc tòa dinh thự đền đài , cả đến tên Thăng Long thành cũng nói lên được Đại Việt hung cứ phương Nam trước giặc phương Bắc .

Hai Rồng quấn vào nhau trên lá Bồ đề cũng nói lên ý chí tinh thần văn minh Thần Đạo Việt Nam từ các đời trước để lại .

Quan trọng là xã hội tính và dân tộc tính thời Lý Trần , đã biểu lộ rõ rệt khi nhà Lý cử phái đòan đi thỉnh kinh Phật mà không cần các chính sách Khổng học ở Trung quốc .

Thời nhà Nguễyn coi Nho học là quốc giáo , nhưng ở bình diện thống trị dân , còn trong dân gian văn hóa Đại Việt lúc nào cũng hiện hữu – văn minh Thần đạo vẫn là quyết định trên hết .

Nho giáo đã thất bại và héo tàn theo vương triều phong kiến nhà Nguyễn . trước khi quân Pháp tấn công nước Việt , Nho đã suy yếu , trong các trận tấn công của tàu chiến Pháp và hành động đúng nhất của vương triều Nguyễn là cấm sự lẫn lộn trong dân của các linh mục truyền đạo Thiên Chúa vào nước ta . Từ vua cho đến dân quan văn võ triều đình và tất cả dân chúng đều bài đạo . điều đó đã ngăn đạo Tây tà vào tàn phá đức tin Thần Đạo của dân tộc ( chúng ta chỉ nói lịch sử thời Pháp thực dân mà thôi ) .

Mặc dầu triều đình Huế yếu thế phải ngậm đắng dâng thành cho giặc , và các đạo luật bãi bỏ lệnh cấm đạo Thiên chúa .

Đạo Thiên Chúa cũng như các đạo khác nàgy nay đã xây dựng cho tổ quốc thật lớn alo rồi .

Với tinh thần đạo nhà , nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu :

Thà đui mà giữ đạo nhà

Còn hơn có mắt ông cha không thờ .

Khắp tòan dân đều chống văn hóa và tôn giáo Tây di , cho nên đã hạn chế mạnh mẽ khi Pháp chiếm tất cả nước Nam đặt nền đô hộ và bạo nghịch , dân Nam đều nổi lên chống giặc để giữ Đạo nhà – từ đình , miếu , dinh trấn , tinh thần chống đạo Tây di và káhng chiến đánh giặc giữ làng giữ nước – giữ đình giữ nước xảy ra khắp nơi , cho tới ngày Pháp về nước mới thôi .

Bao nhiêu anh hung liệt nữ đã ngã xuống hy sinh xương máu bảo vệ đạo nhà – bảo vệ danh dự và nền tự chủ dân tộc .

Khi Pháp rút đi , đình miếu lăng tẩm lại được trùng tu , các đình Thần mới khắp nơi được xây lên .

Các đền thờ cụ Trương Công Định – Trần Quý Cáp – Cao Thắng – Phan Đình Phùng – Nguyễn Trung Trực – và khắp mỗi làng xã tinh thần văn minh Thần Đạo Đại Việt được hòang kim , hồi sinh và lớn mạnh hơn trước .( riêng ở sài gòn có gần 300 đình miếu của Thần Đạo Đại Việt )

Sự phát triển của lịch sử từ thời Bắc thuộc và going Bách Việt ở phương Nam đến nay còn rất nhiều điều ‘’bí ẩn thiêng liêng từ Bách Việt đến Lĩnh Nam của sử Đại Việt ).

Sử sách còn nuối tiếc và đã ghi lại ‘’ phần địa lý chính trị từ trước Bắc thuộc – của Triệu Việt Vương ‘’

Triệu Việt Vương đánh chiếm đất của An Dương Vương là Thục phán xác nhập đất đai của Triệu đà và của cả nhà Thục thành một vùng rộng lớn từ Lưỡng Quảng – vân Nam đến Bắc Việt Phong Châu của Lạc Việt .

Khi đó Triệu Đà xưng là Triệu Việt Vương củng cố triều đình độc lập với Tần hán .

Sau này Quang Trung hòang đế có mộng chiếm lại Lưỡng Quảng cho dân tộc Đại Việt mà sự nghiệp nửa chừng thuốc độc mà chết (?!) đến nay còn là một nghi án .

Đến thời Gia Long thống nhất Nam Bắc một nhà , cho sứ sang trung Quốc cầu phong là Nam Việt ( theo tinh thần Nam Việt Vương từ Triệu Đà khi xưa ).

Khi nhà Thanh lưỡng lự , nếu để vua Gia Long làm vua xứ Nam Việt thì e có cơ hội cho người Việt đòi lại Lưỡng quảng ( Quảng đông , Quảng tây ) là đất Nam việt của Triệu Việt Vương xưa , nên Càn Long xuống chiếu phong Gia Long làm quốc vương xứ Việt Nam . Nghãi là chỉ từ Bắc việt đến Nam Việt mà thôi . Như thế , đất Việt của dòng Việt tộc còn có phân nữa mà thôi .

Thời Minh mạng Tự Đức lấy hiệu lại là Đại Việt – và Đại Nam . Cho thấy triều đình nhà Nguyễn tuy bận việc thống nhất vẫn có ý muốn đòi lại xứ Lưỡng Châu của thời Triệu Việt Vương và thời kỳ Bách Việt của dòng Việt tộc ngàn xưa .

Riêng về mặt chiến lược thì sử thần Ngô sĩ Liên bàn :

‘’ Ngũ Lĩnh đối với nước Việt ta là cửa ngõ của nước , cũng như Hổ Lao của nước Trịnh , Hạ Dương của nước Quắc , Làm vua nước Việt tất phải đặt quân chổ hiểm để giữ nước , không thể để cho nước mất được . Họ Triệu để mất không giữ được chỗ ấy , đến nỗi nước mất dòng tuyệt , bờ cõi chia cắt ra , đất Việt ta lần này lại bị chia mà đã thành ra Nam Bắc . Sua này có đế cương nào nổi dậy chổ địa hiểm đã mất rồi khôi phục lại tất nhiên là khó .

Cho nên Trưng Nữ Vương có thể đánh lấy được đất Lĩnh Nam , mà không thể giữ được nơi hiểm yếu ở Ngũ Lĩnh , rốt cuộc đến bại vong . Sĩ vương tuy lại tòan thịnh nhưng tòan là chư hầu bấy giờ , chưa chính vị hiệu , sau khi chết lại mất hết , mà các nhà Đnh , Lê , Lý , Trần chỉ có đất từ Giao Châu về Nam mà thôi , không khôi phục được đất cũ của Triệu Vũ Đế , thế phải như vậy . Kể cả dòng họ Bách Việt ở phía Nam nứơc tàu cũng bị đồng hóa dần mà họ quên cội nguồn Việt tộc mà không hay ! .

Riêng Tích Quang và Nhâm Diên đem văn hóa Trung quốc vào dạy dân ta ở quận Cửu Chân . Văn hóa Trung quốc muốn đồng hóa dân Việt , kể ra hai ông này có công . Nên lúc vua Tàu gọi về , dân lập đền thờ ( chứ không phải sắc phong của vua ) . Văn hóa Thần Đạo Việt Nam cho hai vị này có công đức giáo hóa dân trồng lúa , cấy cày . Nhâm Diên thường bảo các trưởng lại bớt tiền cho dân nghèo cưới được vợ . thời Bắc thuộc các quan lại Tàu phần nhiều hà khắc bạo tàn , dân cho Tích Quang , Nhâm Diên làm được điều tốt nên lập đền thờ người Tàu có công ơn với dân nước Việt cũng phải .

Nói về mặt tôn giáo , Người ngày này thường có một thông minh nghô nghê với suy nghĩ là tôn giáo thì phải có giáo phận , có tổ chức giáo hội , có tín hữu , có chức sắc mới thành Đạo .

Vậy chứ một chiếc Am cỏ , hay lều tranh của cụ Nguyễn Bỉnh khiêm không là đạo ở ẩn của Lão Trang , một cái chùa miểu ẩn trong vườn cây rậm , không phải là đạo Phật ư . Một nhà thờ cheo leo giữa đồi cát không phải là căn cơ của đạo Thiên Chúa hay sao ! Thần Đạo Việt Nam – là Đạo thần tiên đã có từ trước thời văn hóa Trung quốc vào nước ta đồng hóa dân ta , cớ sao lại để cho suy tàn .

Không như các dân tộc khác để mất cội nguồn , người Việt lúc nào cũng phản kháng , chống trả lại các đòan quân xâm lược . Có Tây học thì cũng phải chống lại sự đồng hóa về tôn giáo . Sự đồng hóa ấy thể hiện dưới nhiều hình thức tinh tế .

Chúng ta cũng thấy các lạoi cây được tín ngưỡng dân gian Châu Phi tôn thờ . Các cố đạo Thiên Chúa cho lập nhà thờ nhỏ gần đó và đem cả thánh giá treo lên , như thế đã cố ý đồng hóa tôn giáo tín ngưỡng bản địa , cho nên về sau các dân tộc Châu phi , da đỏ mất dần tôn giáo tín ngưỡng đa thần hay thờ vật linh , tổ linh của họ và đi nhà thờ , biến dần theo Thiên Chúa giáo hết . Đức tin thần đạo vững bền , thần Đồng Cổ như Sấm Sét , và tín ngưỡng thờ Trời đất , chư thần vô cùng lẫm liệt , nếu ai đụng chạm tới đạo Thần linh Đại Việt thì khó mà đạt được ý muốn của mình .

Người Trung Quốc mạnh lớn và văn minh khá cao thế mà không thể nào làm cho dân ta chấp nhận .

Chỉ có số vua và quan lại học Tứ Thư , Ngũ Kinh – Binh Pháp Thái Công – Tôn Võ Tử , Lục Thao Tam Lược tôn thờ Khổng Tử và chịu ảnh hưởng của Tàu quá nặng .

Văn hóa dân gian vẫn thờ Ông Trời , vẫn làm lễ tế thần linh ở mọi nơi mà đạo Khổng khó bề tranh chiếm được . Ở đình miếu người ta thờ Thần gốc Việt chứ ít ai thờ ácc vua quan và gáio chủ Tàu , ( như đời Trần lập văn miếu thờ Khổng Tử ) – các đền miếu dân gian ở ácc tỉnh tàhnh , nơi hang động , nơi hải đảo , nơi núi cao , cây to và cả bên cạnh đời sống hằng ngày vẫn tin có thần linh gần gũi và phù hộ mình .

Tín ngưỡng về động thiên đến đời nhà Mạc còn các cứ ở Mảnh thiên Động lâu đài của dòng mạc kính Cung v..v.. . văn hóa Đông Sơn và văn minh Cổ mộ Lạch tường đều phát xuất ra đại hồn dân tộc – đó là Đạo Nhà – Thần Tiên đạo - Thần Phật đạo – hay Thần Đạo Đại Việt – đến nay nhất là các đình miếu dinh trấn , thờ Thần Tiên người Việt từ lâu đời . Ngày nay có pha trộn thêm nhiều sắc thái – Giáo sư Olov Jance’ cưỡng lý theo văn háo Âu Tây viết :

‘’ Người ta tự hỏi phải chăng các đạo sĩ đã mượn các ý tưởng núi cao , cung điện của thần tiên ( trên đây của Hy Lạp ) – đỉnh Olympe ‘’

Ông ta cho rằng văn hóa này chịu ảnh hưởng của Hy Lạp .

Từ thượng cổ các tôn giáo chưa từng kết hợp trong một hòan ảcnh bị trị như Việt Nam . Trung Quốc bành trướng bá quyền , nhưng cũng không phá được tín ngưỡng Thần Đạo Việt Nam – đền Đồng Cổ và các đền miếu khác là Thần đạo tối thiêng của lịch sử dân tộc Việt .

Vả lại thời àny đi lại khó khăn , nhất là thời kỳ văn hóa cổ và tiếng nói khác nhau , tư tưởng khác nhau , địa lý càng xa hơn vùng Đông Phương .

Chỉ có vài chuyến tàu buôn của thời đại nhà Đường từ Trung Quốc đi chinh phục , buôn bán khắp thế giới .

Ngôn ngữ đã bất lợi nhất là ngôn ngữ Thần thoại như La Hy làm sao người Đông phương có thể hiểu biết được văn hóa thần thọai Hy Lạp mà ghi vào ?

Nó có các điểm tương đồng tự nhiên của các dân tộc bán khai thời Thượng cổ , mỗi xứ có thần thọai riêng để trình bày vũ trụ quan . Thật khôi hài khi nghe giáo sư kia bảo văn hóa Tiên Động Ấn – Tàu – việt chịu ảnh hưởng của văn minh Hy Lạp cổ - khi mà các xứ sở các nước Đông Phương , Đông Nam Á hình thành trước các nước Âu tây hàng ngàn năm .

Riêng về tư tưởng triết lý và tôn giáo thì đạo thần tiên buổi đầu đã là tín ngưỡng sơ kỳ của Thần đạo vậy

Người Việt da vàng có sự liên hệ về màu da cùng với Hàn Quốc , Trung Quốc , Nậht Bản – nhất định có sự pha trộn về tinh Thần và đạo giáo lẫn nhau , nhưng tín ngưỡng chính thống của người Việt vẫn là Thần Đạo – như người Nhật có Thần Đạo Nhật Bản vậy .( các sắc dân da đen như Ấn , Hồi – Mã Lai , Indonesia , Chàm , Campuchia … thường theo Ấn độ giáo – Bà la Môn – Hồi giáo , Phật giáo . đạo Khổng , Lão không thâm nhập được vào văn hóa các sắc tộc da đen này )

Người Việt cũng có phá trộn sắc thái văn hoa đồ đồng với các dân tộc Nam Trung Quốc ( Bách Việt xưa của Triệu Việt Vương ) .

Đồng thời văn hóa Đông sơn , nghề đúc trống đồng huyền bí linh thiêng , ai nấy đều tôn thờ .

Văn hóa Thần Đạo không chỉ ở Thần Núi Đồng Cổ mà còn văn hóa Thiên Động và văn minh triết – Tiên tri nữa !

Như cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm hoặc Phật Thầy Tây An cũng từng tung ra Sấm Ký để răn dạy người đời – xét việc vị lai quá khứ !

Sự kết hợp Thần Đạo Đại Việt với đạo lão và sách Đạo đức Kinh hay Kinh Hùynh Đình thật sự nó chỉ có trong Nho Học , những nhà trí thức của thời kỳ Nho thịnh . Bởi vì Nho gáio không chỉ riêng của cụ Khổng Tử , Mạnh tử mà thôi .

Từ người học Nho đạo , đọc thêm Đạo Đức kinh – nam Hoa Kinh và các sách Trung quốc chịu ảnh hưởng tinh Thần Lão trang – chứ thực ra đạo quán của Lão không có trực tiếp truyền vào nước ta , qua cái học từ chương của nho sĩ ( Đời Nhà Minh cai trị nước Nam có lập ra Đạo Kỳ Ty và Tăng Đạo Ty để kiểm sóat tôn giáo Đại Việt )

Tinh thần Thần Đạo trong dân gian rất tự nhiên – từ thái cổ . Giữa văn hóa huyền bí Việt ( Lạc Việt ) với văn hóa Lão trang ( Bách Việt ) hầu như chỉ là một . Khác với Hán tộc từ phương bắc Trung quốc . Lão tử là người Bách Việt – trong dân gian , về đời sống tâm linh , có lẽ ít ai biết Lão - Trang là ông nào cả . nhưng họ biết văn miếu thờ Khổng tử hơn nhiều .

Thần Đạo và Lão đạo chan hoà lẫn nhau phát triển theo dạng văn minh ẩn , xúât thế hơn là nhập thế ( Đạo Thần tiên ).

Đạo phật nói tu hành tránh điều tranh chấp trong thế gian , nhưng xét cho cùng lại là đạo nhập thế quan trọng hơn cả đối với người đời nay .

Giáo lý nhà Phật giống như xa thế tục mà chùa chiền mọc lên khắp nơi , có lúc lấn áp cả các đạo Khổng đã cùng nhập vào nước ta thời Bắc thuộc . Ngày nay có nhiều tông phái Phật giáo ra đời . Nó chi phối cuộc sống và phổ biến tinh thần Đạo Phật khắp nơi , trở thành một nguồn đạo hạnh xây dựng chân thiện mỹ chánh , tư duy tích cực hơn cả . Khi đó vũ trụ tâm linh huyền diệu trong sự huyền bí và huyễn hoặc của Lão trang không lộ rõ , chỉ như trăng như nước , như gío như mây bàng bạc khắp tâm linh con người chan hòa trong vũ trụ . trong vai trò xây dựng xã hội chúng ta cần nghiên cứu xem .





VAI TRÒ ÔNG THẦN NÔNG



Các nứơc Á Châu như trung quốc và Đông Nam Á có Việt nam – hay văn minh Đại việt có người gán cho là văn minh làng xã văn minh lúa nứơc . Nhất là riêng ở Việt nam xứ nông nghiệp cả Trung quốc hiện 90 % là nông dân … Việt – Hoa ở gần nhau . Có lúc hòa mục , cũng có lúc vờn nhau như ãmnh hổ và thanh long .

Nếu Trung Quốc là cọp là hổ thì Việt nam là rồng chứ không hề chịu thau kém gì . Ông cha đã xưng là Văn Lang là nước của người có văn hiến – có học có đạo đức của Trời sáng sủa rọi hồng ân khắp nơi .

‘’ Trông trời , trông nắng … trông mưa !’’ . vai trò nông dân và nông nghiệp là quan trọng hơn hết . Ta không đi vào tính xã hội của làng nứơc , ta chỉ đặt riêngav61n đề tâm linh , ngừơi Tàu thờ Thần Nông Nghiệp thì người Việt cũng có cụ tổ Nông nghiệp là Thần Nông .

Và Thần Thọai lịch sử đem cả truyền thuyết gán cho Việt Nam có liên hệ đến cụ Thần Nông của Tàu .

Đúng là Tàu Việt đề huề cho nó có cái tình hòa hảo lân bang thôi . Tất nhiên là Thần Nông của Việt khác Thần Nông của Tàu .

Thần Sông , Thần Núi Hồng Lĩnh , Núi Đồng Cổ , Núi Tổ Tản Viên khác với Ngũ Đại Sơn của Tàu .

Tuy tín ngưỡng đều tương cận , tương đồng nhau – vì biên giới Việt và Hoa chỉ bước một bước thôi là đã sang nứơc bạn .

Thời đại hòa bình mới , cũng không nên nói chuyện cũ …,

Học để rút ra kinh nghiệm giữ nước của Thần Đạo – lúc hòa bình thì dĩ hòa vi quý – không nên phân biệt đối đãi nhau . Người Việt chấp nhận văn hóa Khổng mạnh – người Tàu chấp nhận văn hóa Thần linh – cùng tồn tại hòa bình .

Trên thế giới nàgy nay văn háo Âu Tây – Mỹ Châu – Phi Châu – Á Châu tuy có khác biệt về bản sắc riêng , nhưng cũng có điều tương đồng cần thếit là vấn đề tự do – nhân bản – kinh tế và văn hóa tòan cầu – điểm chung này nước nào đã văn minh thì phải có cả

Văn hóa Đại Việt – văn hóa Thần tiên hang động núi sông hòa hợp với Tam giáo – Thành đồng nguyên tứ đại giáo .

Tuy nhiên về mặt tâm linh cao sâu là văn hóa Đông Sơn – Cổ Mộ và văn hóa Tiên Tri của người Việt . Đời nhà Mạc , cụ Trạng trình đã viết ra Sấm trạng trình . Đời Lý , thiền sư Vạn hạnh cà các khai quốc công thần của Lý Công Uẩn cũng nhờ sấm k1y , tiên tri lời văn ẩn dụ báo hiệu nhà Lê đổ họ Lý lên thay – và lòng dân luôn tin theo như tin lời hát của vị Thần tiên trên sông Như Nguyệt về bài tuyên nngôn độc lập của Lý Thường Kiệt ( Nam quốc sơn hà Nam đế cư )

Đến thời Lê chống quân Minh thì lá cây rừng có chữ việt của Thần linh báo tin rõ cho dân ‘’ Lê Lợi vi quân , Nguyễn Trãi vi Thần ‘’

Tất cả sấm , hay lời tiên tri từ sấm ký , từ lá cây , từ lời Thần ở đền Trương Hống , Trương Hát cho đến Sấm Trạng trình tiên tri lịch sử dân tộc hằng vài trăm năm . Phải nói là chỉ có dân Đại Việt mới đặc biệt có văn hóa tiên tri sâu kín và lớn lao , thành công nhất cho sự nghiệp lập nước , giữ nước đời đời những nhà tiên tri từ Hy Lạp , từ Ấn Độ , Trung Quốc cũng đều có . sau thời đại Pháp sư từ thượng cổ .

Về cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh khiêm .

Nói về văn chương siêu hình , tâm linh kỳ quặc , trữ tình siêu thực hóa Hồ Ly thành mỹ nhân làm say đắm lòng người hư hư thực thực thì Tàu có một Bồ Tùng Linh với Liêu trai Chí Dị - đem tâm tình dẫn dắt lịch sữ theo kỳ vọng thầm kín của nhà tiên tri siêu phàm mà các thánh nhân muôn đời xưa nay ít có ai thực hiện thành công . đúng với tinh thần Vô Vi của Lão tử - làm như mà không làm .

Có lẽ chúng ta phải trầm tư suy diễn nhiều hơn về cuộc thế từ khi có cụ Trạng cho tới khi nhà Nguễyn mở nước phương Nam đến tận nàgy nay . thế cuộc xoay vần , cụ Trình như một vì tinh tú , soi sáng cả vũ trụ càn khôn , và bờ cõi Việt vẫn còn đang trôi nổi trên giòng sông vô tận của Thời – Không gian – lớp lớp trôi mãi vào cõi vĩnh hằng .

Tinh Thần ‘’ Quốc gia ‘’ có từ thời nhà Trần . đời Lý các nhà sư được phong là quốc sư như Viên chiếu , Thông Biện , Viên Thông , Không Lộ đều được ban hiệu quốc sư .

Câu chuyện Pháp sư cao Biền cao tay ấn của Tàu còn phải chịu thờ Thần Long Đỗ của nước Việt thì biết tài phép lạ thường của người Việt cổ vô cùng cao diệu vậy .

Ta có thể ví tinh thần Việt hóa đã cực mạnh đến đạo Phật . Chẳng káhc àno Quốc hữu hóa văn hóa nhà Phật để sự dụng trong triều đình . sau đến đời Trần , Trần Thủ Độ tiêu diệt hết vua quan nàh Lý , lúc đó các nàh sư sãi cũng bất lực , không bảovệ được Lý triều và Nho giáo , cả Thần đạo cực thịnh .

Năm 1520 vua Trần Thái Tông xuống chiếu cho thiên hạ gọi vua là ‘’ Quốc Gia ‘’ . thể hiện sự đồng nhất ngôi vua với biểu tượng đất nước ( văn hóa Việt Nam đỉnh cao Đại Việt )

Chúng ta khó mà đồng quan điểm một cách ‘’ câu nệ ‘’ hay chủ quan của ông , về văn hóa lúa nước ! Chúng ta thấy tùy theo triều đại mà nền văn hóa chủ động theo chánh sách của triều đại ấy .

Thời Hùng vương văn hóa Văn Lang Thần Đạo , thời Thục Phán văn hóa Thần đạo thờ Thần linh , các đền miếu được dựng lên như Phù Đổng Thiên Vương , Thần Đồng Cổ , Thần Kim Qui v..v.. . Và văn minh đó được thể hiện trong miếu đình lan tỏa ra xã hội . Những hương ước , những tộc họ đều làm ở đình . và có dấu ấn của đình , của vị Thần linh là Thành Hòang chứng giám trong các lễ cúng Thần – cúng miếu .

Thời Lý tuy trọng Phật giáo mà vẫn bắt các quan ăn thề ở Đền Đồng Cổ - mỗi làng đều có Thần làng Thành hòang bổn cảnh – văn hóa cái đình quan trọng hơn cả .

Đình thờ linh Thần – tất nhiên là Thần đạo Việt Nam .

Đời Trần còn trọng Nho giáo – cả nhà vua đưa Thiền Tông Trúc LÂm lên cao tột đỉnh – đỉnh núi Yên Tử - nhưng vẫn ở trong lòng Trời đất – quốc gia – xã hội Việt nam , Và Thần Đạo vẫn bao trùm đời sống tâm linh ‘’ Thiên lý tại nhân tâm ‘’ vạn vật ư linh . bấy giờ có tinh Thần quốc gia của vua Trần – tuy là thấy có vẻ nôm na , không ra chữ nghĩa gì , khi nhà vua xưng mình là Quốc Gia – nhưng Quốc gia – đồng thể với đất nước – dân tộc giống nòi Hồng lạc .

Văn hóa Nho của Tàu bị đồng hóa triệt để để làm cho văn hóa Việt thêm chặt chẽ về tư tưởng và phổ quát về tâm linh Thần . văn hoá Phật giáo và Ấn Độ giáo ‘’ chịu sự cô đọng lại thành một điểm duy nhất – quan trọng nhất là Phật giáo Thiền Tông do vua Trần nắm giữ .

Các quốc sư Phật giáo không còn nắm giữ trọng trách như thời Lý – mà trí thức Phật xoay về chùa chiền . Nam tông , Bắc tông , Vô ngôn thông v..v.. đều không còn hiện thực ồn ào kinh kệ nữa và hóa cõi hồng trần thành chốn thiền môn cửa Phật , biến hiện thực thành duy tâm – linh thần .

Lúc đó tất cả miếu đền , đình , quán đều xây dựng ngày càng nhiều hơn . Các vị Thần Linh như Thần Đồng Cổ , Linh Lang – các vị tổ như mẹ âu Cơ - Thần Phù đổng . Thần Kim Qui , Linh Lang Đại Vương và chư Thần đều hiện hữu để hướng đạo cho sự thờ cúng , hành sử , đời sống xã hội như đồ vật , được thờ như tổ nghề võ Việt , các Thần thi của Trần Nhân Tôn , Trần Khánh Dư , các hịch truyền động viên tướng sĩ đánh giặc . Cả Vạn Kiếp Bí Truyền Thư và Binh Thư Yếu Lược của Đức Thần Võ Tướng Quân Trần Quốc Tuấn đều xuất hiện .

Tinh Thần chiến đấu của Thần Đồng Cổ , Thần Long Đỗ , của Huyền Thiên Trấn Vũ , của Hai Bà Trưng , Bà Triệu nổi lên như sấm vang . Giặc Mông Cổ vỡ tan vì nghe tiếng trống đồng Đại Việt .

Sự Anh linh của tổ tiên – sự hiển hách của chư Thần hòa quyện cùng tinh thần chiến đấu của Linh Lang Đại Vương , cùng tòan dân Lạc Hồng thề ‘’ sát đát ‘’ giết giặc – nào Trần Quốc Tỏan còn thanh thiếu niên vẫn nêu cao ngọn cờ ‘’ phá cường địch , báo hòang ân ‘’ . Vì hòang ân là vua , vì vua là quốc gia dân tộc .

Dân tộc Đại Việt đã đánh bại quân thù vang rền núi song và cả thế giới .

Trận đánh Thần thánh đó là trận bại cuối cùng lớn nhất của tòan quân Mông Cổ trứơc khi cả triều đại Mông Cổ cáo chung trên thế giới .

Nếu dân tộc Đại Việt không mở cờ của Thần Chiến thắng Đồng Cổ - Kim Qui thì khó mà có tinh Thần mưu lược nào vĩ đại hơn để thành công . Một đại thành công với một hành động phi thường , mà triều đình nhà Trần đã thừa hưởng từ tinh thần Đại Việt Đại Hành , của các đế vương để lại .

Những điều cơ bản của người Minh Triết Đại Việt Thần Đạo và vấn đề sau đây :

• Thân danh và lịch sử

• Sống và chết tôn thờ sông núi

• Coi thiên nhiên ‘’ cây cổ thụ ‘’ như như bản thân mình .

• Trọng sự sống và kính sự chết , thờ tổ tiên

• Tôn sư trọng đạo .

Như đã nói dân tộc Việt lúc mới mở nước , Hùng vương đã đặt quốc hiệu là Văn Lang , là nước của người hiền lương , có văn hiến sáng rực dưới trời Nam .

Với nhân dân , đức tổ Hùng Vương đã có ý hướng rất tốt đẹp khi người xưng quốc hiệu Văn Lang đó . Người muốn cho tòan dân phải chăm chỉ dùi mài kinh sử , lo việc học hành để thành một người có học , có đức hạnh . và một nước có văn hóa cao – đạo lý tốt đẹp .

Bản thân của người Việt thưở ban sơ đã được Đức sáng tổ dạy dỗ như thế , cho nên suốt mấy ngàn năm , noi gương Người . Dân tộc Việt đã giữ gìn truyền thống đạo lý làm người – minh triết , sáng sủa , hiểu biết trong đời sống hàng ngày . Người minh triết là người biết yêu thương mọi người xung quanh mình , làm việc gì cũng al61y đạo lý làm người – nhân nghãi là trọng . người minh triết còn hiểu được lẽ huyền vi biến thông của vũ trụ . đó là luật sinh hóa Ngũ Hành – tứ Thời – mà sống theo thời của mình .

Theo thời là hợp là thuận với thời để đạt mục đích làm người , là có trách nhiệm với thời đại của mình .

Trách nhệim đó có nền tảng Tứ Giáo Đồng Nguyên đối với vũ trụ nhân sinh và lịch sử .

Trời Đất là cha mẹ nhân từ sinh rat a – là người Việt phương Nam – av2 chủ quyền lãnh thổ tại phương Nam .

Nam quốc sơn hà nam đế cư – Lý Thường Kiệt .

Trời đất chẳng những sinh dưỡng ta mà trời sinh hóa cả vũ trụ vạn vật để cho người thay trời ở thế gian mà thi hành cái đạo trời ( Đại Hành )

Người Minh Triết tiêu biểu cao tinh thần kẻ sĩ Việt Nam có tài năng trước hết là lo giữ nước ,an dân , thếit lập nền pháp trị bảo vệ muôn dân lấy sự nhân tâm công chính làm đầu – xây dựng đất nước cường thịnh . Thế nên vua Lê mới xưng là Lê Đại Hành – để điều tiết mọi hành động con người với phát triển xã và đất nước ( Tổ quốc Đại Việt ) cho nên đời xưa bậc minh chúa giữ được nước , không để một tấc đất của tổ tông bị mất vào quân xâm lược .

Đối với dân , yêu dân như yêu con mình .

Thương cả những người lầm lỗi tội đồ sa chân vào vòng tù ngục , tiêu biểu là vua Lê Thánh Tôn . Người cởi áo mặc cho người ốm đói nằm bên lề đường , giữa thời đông thiên lạnh lẽo .

Người Minh triết tạo công trình phúc lợi cho dân , đắp đê điều , chỉ dân thửơ đầu cấy lúa và sống ăn ngủ , cùng tắm trên một dòng sông với dân tộc ( Vua Hùng ) .

Chẳng những thế , Người Minh Triết lên núi trồng rừng , xuống đồng bằng xây đập , mở đê , đục thuyền gỗ , tạo thuyền buồm làm lứơi cùng đánh cá ngòai khơi .

Từ buổi sơ kỳ thần đã xuất hiện và sự uy linh có mặt khắp nơi , vì thế mà tâm linh dân tộc Việt luôn ngời sáng luôn minh triết , để cán đáng , gồng gánh núi song , khai phá bờ cõi về Nam – xây dựng quê hương thanh bình với gần tám mươi lăm triệu người , gắn bó như 85 triệu chiếc đũa tâm linh , 85 triệu con người có than có phận cùng nhau học được câu dạy của tổ tiên , hợp quần thống nhất nhân tâm là sức mạnh vô địch của tòan dân .

Văn hiến Việt là văn hiến của thần linh – vì tâm linh vũ trụ của trời đất đều có ẩn sâu trong nhân tâm người Việt .

‘’ Thiên lý tại nhân tâm ‘’

Thành Đại la do Cao biền xây thuộc về nhà Lý tu bổ lại có thần tiên thể hiện giữa trời để chào mừng Lý Thái Tổ dời đô . có mây lành bao phủ như lọng vàng , khí thiêng sông núi về hội tụ .

Văn minh Thần đạo chẳng những sinh ra nhà tiên tri Nguyễn Bỉnh Khiêm , mà còn sinh ra Ông Tổ nghề Y dược là Tuệ Tĩnh thiền sư , cùng với Hải Thượng lãn Ông là tổ nghề thuốc , viết sách dạy dân làm nghề y dược cứu đời . Công lao sự nghiệp để lại cho đời rất nhiều bộ sách trong ngành y vô cùng quý giá , có đền thờ Thần Y ở xã Lnag Đồng huyện Chí Linh – Hải Dương .

Trong Thần Thọai có cây đa Thần , có Hằng nga và Chú Cuội – cũng al2 thủy tổ nghề thuốc , từ thửơ sơ khai , buổi bình minh của Âu lạc . Trong văn hóa thời cổ đại Thần tiên thường xuất hiện trong hang động , ở núi cao rừng thẳm , từ trên trời xuống . Vì thế mà tiên ở đây cũng là một dạng Thần trong văn hóa Việt .

Tiên thảnh thơi nhàn nhã , không bận tâm xây dựng làng nước xã hội gì cả ! Chỉ biết có hoa đào , bình rượu , túi thơ ngao du khắp càn khôn vũ trụ và khing ngạo tất cả những gì vật chất hệ lụy của trần gian . Từ Thức người trần mà tìm dấu thiên thai , lên chốn tiên cảnh khi nhớ trần gian trở lại ( một năm sau ) thì cỏi trần như giấc mộng . chàng thấy mình đã hóa già từ lúc nào .

Quê quán chàng chẳng biết chàng ta là ‘’ ông ‘’ nào , trẻ con nhìn chàng với đôi mắt ‘’xa lạ ‘’

Ta không cần suy diễn để bàn thêm về việc này .

Chỉ nói cõi tiên là cõi vô sự , an nhàn và người đời luôn mơ ước . Văn hóa tiên là một lọai văn hóa siêu hình , viễn tưởng , viễn mộng , trường cửu nhất của lòai ngừơi , xa rời lý âm dương , vô phân biệt và chỉ có nơi đó chứa duy nhất sự thánh thệin tinh khiết và đẹp nhất . Một lọai văn duy mỹ kỳ diệu nhất của người Việt .

Vén mây mở lối động đào

Tìm cho rõ được lối vào thiên thai .

( Kiều )

Hòan tàon là một lọai thi ca trữ tình nhất mà cũng nhân bản nhất . sau àny , khi người Việt đọc thêm sách Chữ Hán , các câu chuyện Thần tiên của Lão giáo đầy Chân Thiện Mỹ như truyện Bát Tiên quá Hải , lập tức được đồng hóa vào tiên động đào của người Việt mà thành một lọai văn hóa tươi đẹp sáng sủa lung linh siêu việt nhất . thật ra các câu chuyện Tiên hay Hồ Ly xứ nào cũng có , nhất là ngừơi Á Châu .

Chúng ta lưu ý - Thần – Thánh – Tiên – Phật đều là một nhất thể linh diệu cả - để bổ sung cho tinh thần thực tiễn của văn minh nông nghiệp lúa nước thêm vẻ kỳ ảo mông mênh vô cùng .

Cõi đời trăm năm quá ngắn , có hành động gì đi nữa chớp mắt cũng àtn như buổi tiệc hòang hôn . Truyện Thần tiên nối dài viễn tưởng cho lòai người sống thêm , bất tử cùng với thời không gian .

Nhờ có truyện Thần tiên , mới tạo ra cảm giác hoan lạc đến vô cùng . cả thậut phòng trung , giao hoan , ân ái chan hòa , cả nét nhân bản kia cũng từ cõi mộng ảo của lòai người mơ đến Thần tiên mà ra thôi .

Từ thưở tiên đi s61u cũng nhỏ

Nhân gian ai chép nhạc Nghê Thường

Cỏi đời lẳng lặng quên xa biếc

Đi hết thời gian không nhớ thương

( Huy Cận – Lửa thiêng )



Đọc văn thơ tải đạo – đạo lý trường sinh bất lã phép thuật cao thâm , chỉ có lọai Thần tiên của Việt Nam và Lão giáo mới đạt được chân lý tưởng cửu tại thế mà thôi .

Sau này dù có đạo , có tư tưởng văn hóa thế giới phong phú đến đâu , cũng khó mà bì kịp với tinh thần Thần đạo của Việt Nam . Đem Thần tiên về sống với cõi đời – bất tử vậy .

Tinh Thần hiện thực xa xưa – đời sống nông nghiệp khiến tinh thần thực tiễn cao . Tuy nếp sống tâm linh hoằng viễn nhưng thực tế các công cuộc kiến quốc , xây dựng Tổ quốc và đời sống bình thường của xã hội nông nghiệp lúc àno cũng ‘’ lưu ý ‘’ con người pảhi thực tế trước cuộc sống khó khăn nghèo đói lạc hậu và bị siết chặt từ các quan lại triều đình . Cho nên họ đã thốt lên :



Còn gạo nhất sĩ nhì nông

Hết gạo chạy rông , nhất nông nhì sĩ .



Hay như Tú Xương :

Thúng đấu nhờ ơn bác mẹ mày !



Những hiền nhân quân tử trước vẻ đẹp của ‘’ Hang cắc cớ ‘’ thì :

Mõi gối chồn chân vẫn phải trèo



Trước bức tranh tả chân của thếiu nữ đang nằm ngủ:

Yếm đào để trễ dưới nương long ( Hồ Xuân Hương )

Khiến cho nền văn hóa phồn thực đầy nhân bản , nở rộ muôn ngàn hương sắc trong đạo Thần tiên người Việt .

Như thế rõ rang văn háo đa dạng của Thần đạo là một tổng thể của mỹ cảm m của tình người .

Chắc chắn là lối văn chương tả chân ,trào lộng cùa Tú Xương , nữ sĩ Hồ Xuân Hương của Việt nam đã thực hiện đời sống tinh thần và vật chất của người Việt Nam đã hiện thực đời sống tinh Thần và vật chất của người Việt trước làng nước , xã hội Việt .

Chắc chắn là nó hiện diện trước khi có lọai hiện thực xã hội từ Âu Mỹ vào Việt Nam , qua các tác phẩm của Vitor Hugo , của Dos – của các tác giả . Cả phong trào siêu thực cũng đến sau siêu hình , ấn tượng , duy lý , duy tâm , duy Thần của thi văn cổ đất Việt.





VI . TƯ TƯỞNG THẦN ĐẠO VIỆT NAM



Tư tưởng Thần đạo Việt Nam không phải là tín ngưỡng hư linh mê hoặc con người mà là tinh thần chiến đấu Thần thánh để bảo vệ Tổ quốc . Ta phải phân biệt Tổ quốc là cội nguồn , là dòng dõi tòan dân Đại việt , từ khai thiên lập địa đến thời đại Hùng vương đã kết tinh và có hệ thống , có đền , đình , dinh ,miếu , thờ thần linh rõ rang . Khi nghiên cứu văn minh , tư tưởng Việt ,nhà nghiên cứu Pháp và các nhà nghiên cứu văn minh Việt Nam đều coi trọng thời đại Hùng Vương và nhất là Đền Đồng Cổ . Thần Đồng Cổ (trống đồng ) của nền văn háo Đông sơn . Ngôi đền Đồng Cổ chứng minh cho áccnhà văn hóa Âu châu viết sách và Âu Châu đã coi Thần Đồng Cổ là di tích Thần đạo Việt Nam , quan trọng nhất từ buổi đầu lập quốc .

( Theo tư tưởng Việt Nam – Nguyễn đăng Thục ) .

( Cụ Nguyễn Đăng Thục đồng ý với các nhà nghiên cứu văn hóa Pháp bảo Thần đạo là tôn giáo chính thống của thới vua Hùng .)

Ngày nay , dân tộc đất nước ta lấy trống đồng làm biểu tượng cho nền văn minh Việt , không phải là điều hư hoặc mà là sự tự hào Đặc biệt của dân tộc Việt . Thần Đồng Cổ là dấu tích thời đại Hùng Vương theo Thần đạo , trước khi có Nho giáo vào nước ta . Thần đạo là đức tin chính thống của dân Việt ( Tư tưởng Việt nam – Nguyễn Đăng Thục ) . Khi quân Tàu xâm lăng cướp đất nước , chúng mưu đồng hóa dân ta theo ácch sống và nền cai trị của giặc , xóa bỏ đình miếu của dân ta . lập đình miếu thờ Thần của Tàu . Chúng cướp của cải , tàn phá ruộng đồng , sai quan lại đào ãm xưa để tìm của , trong đó có trống đồng Đông Sơn là báu vật quốc gia Việt Nam . Nhưng dân Việt Nam nhờ rõ cội nguồn và có sẵn nền văn hóa Thần đạo thờ trong lòng mình , không tin lọai văn hóa ngọai lai bắt buộc . tuy nhiên bên ngàoi phải theo mà trong lòng bất phục . lúc àno cũng nhớ cội , nhớ nguồn , nhớ tổ tiên nòi giống và chôn giấu gia bảo , nhất al2 trống đồng , nên sau àny người ta mới tìm lại được rất nhiều trống đồng Đông Sơn . Lập bàn thờ gia tiên ở trong nhà để cúng ông bà cha mẹ , cùng chung sức , chung lòng và nói cùng một tiếng nói Việt nam từ Nam Trung Bắc một nhà . vì thế mà giặc không đồng hóa nổi tinh thần dân tộc .

Cho nên giá trị quan trọng nhất của nền văn minh Việt là Đền đồng Cổ , là Trống Đồng Lạc Việt vậy ( Trống Đồng Đông Sơn ) . bây giờ chúng ta thử tìm lại truyền thuếyt về Thần Đồng Cổ . Theo như sách Từ Điển Di Tích Văn Hóa Việt Nam ghi như sau :

‘’ Đền thờ Thần Núi đồng Cổ ( còn có tên là Núi Khả Lao , xã Đan Nê , huyện Yên định , tỉnh Thanh Hóa ) . Tương truyền ngày xưa vua Hùng đi đánh Chiêm tàhnh khi trú quân dưới núi , đêm mộng thấy Thần hiện lên xin cho đem trống đồng theo quân để trợ chiến . Khi lâm trận vua Hùng nghe như có tiếng trống vang lên không trung . thắng trận trở về , Vua Hùng phong cho Thần là đồng Cổ đại Vương . đó là Thần đạo đầu tiên ở nước ta trong đời Hùng Vương .



                                                           ( Đền Đồng Cổ -  từ                )



Thần Đồng Cổ sau này được thờ phụng ở nhiều nơi . Có khi lại thờ chung với vị Thần khác ( Đọc quyển báo Cổ Vật Tinh Hoa – Việt Nam với văn háo Đông Sơn sẽ đầy đủ chi tiết hơn ) . Đặc biệt trên nền trống có hình người cầm đèn nhưng xem ra là cầm ngọn đuốc dài , cao như vị linh Thần cầm ngọn lửa thiêng . Tượng trưng cho Thần Lửa ở phương Nam .

Đó là tinh Thần và văn hóa Thần đạo , thờ Thần Lửa rất đặc biệt của văn minh Đông Sơn .

Mặt trống đồng ở giữa có hình ngôi sao tượng trưng cho trời , ở trung cung vũ trụ điều hòa tất cả sinh họat dân gian và thiên nhiên . Có cả thạp đồng để chôn người theo cổ tục xưa , cả dao đồng , ácn dao có hình người , có ấm đồng , bình đồng và cả vương miện có hoa văn còn khá rõ của thời đại Hùng Vương . Các di vật còn có mộ thuyền rất đặc biệt của tục tang ma , đưa táng , nhiều lọai trống , binh khí đồng có nhiều kích cở lớn nhỏ , nhưng kiểu mẫu vẫn giống tạc như nhau , rất quý hiếm .

Văn hóa Thần đạo từ cổ đại lịch sử đến nay , đời nào cũng được bồi đắp , cũng được xây dựng dù trong thời bị lệ thuộc các vương triều Trung quốc và cả đến thời Pháp cai trị , lúc nào đình miếu cũng được người dân tôn thờ lễ bái . Đó là nơi thờ các anh hùng nghĩa khí từ trước khi Ngô quyền đuổi Nam Hán lấy lại nền độc lập cho dân tộc Việt Nam xưa kia !

Thời nào cũng vậy , khi nước nhà độc lập thì văn hóa chính thống được coi trọng . những gì bị tàn phá , mất mát đều được sưu tầm , xây đắp phục chế lại khang trang hơn xưa . Các vị Thần linh là vua , là quan văn , là võ tướng , là thành hòang bổn cảnh … ở làng xã , thị trấn , tỉnh thành đều được khắc tượng , vẽ hình ảnh nêu cao danh vị , thành tích cứu dân giúp nước . Tất cả đều là dân tộc chính thống , là dân Đại Việt . Kể từ Triệu Đà tự xưng là Nam Việt Vương chống nhà Hán . sau đó vì cũng là người tàu nên trở lại thấn phục nhà Hán . Đến thời cháu Triệu Đà , lấy vợ ngừơi Hán , họ Cù . Phần thì Triệu Minh Vương nhu nhược , băng hà sớm , phần thì Ai Vương còn nhỏ tuổi , nên quyền nhiếp chính nằm trong tay Thái Hậu họ Cù , một nội gián của Hán . Đứng trước tình hình hết sức khó khăn này , Thừa Tướng Lữ Gia quyết tâm chống giặc Hán đến cùng , với những sử tiết ly kỳ ‘’ Lộ Bác Đức cả sợ bèn dùng mưu cho tướng Chu Năng ( Người Việt ) trá hàng Lữ Gia , nhưng rồi đánh tập hậu , chém đầu vị lão tướng . Lữ Gia vẫn ngồi trên mình ngựa , cúi xuống nhặt lấy đầu buộc lại vào cổ và tiếp tục đánh . Ngựa phi đến thôn Lã Chi , gặp bà hàng nước , ông hỏi :

- Người ta bị đứt đầu thì có sống được không ?

Bà hàng nước trả lời rằng : ‘’ Không sống được ‘’ .

Lữ Gia nghe thế liền hóa . Con chó Ngao trung thành của ông đem đầu ông về Lam Động . Trong lúc đó hai người vợ của ông đang chỉ huy thủy quân đóng đồn ở bến Hạ Nha ( Phong Châu ) bị giặc vây riết bèn kêu to lên rằng :

- Tướng quân ở đâukhông lại cứu để bọn thiếp khốn khổ thế này ?

Ngay lập tức một đòan thần binh xuất hiện trên không phóng lao , bắn tên vào quân Hán . Hai bà nhìn thấy chồng cưỡi ngựa trong làn mây , nhỏ nước mắt rồi tảh xuống một dãi lụa mắc vào cành cây gạo để bốn chữ ‘’ Phục ẩn thánh thần ‘’ . Hai bà hiểu rằng chồng mình đã chết và hoá thần . sau đó hai bà xung sát với giặc một hồi rồi cuối cùng nhảy xuống sông tự vẫn .

Dân làng vớt thi thể hai bà mai táng và lập đền thờ .



                                                            ( Đền thờ Lữ Gia -     )


Tương truyền dưới đời nhà Trần , khi đất nước ta bị họa xâm lược Nguyên Mông , anh linh Lữ Gia đã hiển hiện từ Lam Động dẫn đòan thần binh đánh giặc trợ giúp Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật khiến giặc khinh hòang tháo chạy .

Đền Hạ Nha ( thờ hai bà vợ Lữ Gia ) ở đối ngạn với đền Nhân Mục thờ Lữ Gia . Có một điều kỳ diệu là hàng năm cứ vào ngày 12 tháng 5 âm lịch , khi làng Nhân Mục làm lễ cúng tế Lư Gia thì trâu bò làng Hạ Nha kéo nhau lội qua sông để sang làng Nhân Mục .

Người ta đồn rằng đó là hai Thánh Bà đã cưởi trâu bò qua sông để dự lễ cầu Thánh Ông , vì thế họ đã bàn nhau dùng thuyền rước anh linh hai bà qua sông . Quả nhiên không thấy trâu bò lội qua sông như trước nữa . ( GTLSVN).

Đó là lịch sử thần đạo Việt Nam thời Bắc thuộc ( cũng cần nhắc lại là nước Nam Việt của Triệu Đà và các dân tộc Việt từ phía Nam sông Trường giang đến Việt Nam . Phân nữa nước của dòng Bách Việt bị Tàu đồng hóa , chỉ còn lại nữa njước Việt do dòng Lạc Việt giữ được đến nay là Việt Nam mà thôi ).

Bắt đầu từ Bà Trưng , Bà Triệu và các tướng quân , cho đến thời Lý Bí chống lại Hán Đường , nước ta còn được gọi là đất Lĩnh Nam .

Đất Lĩnh Nam nổi tiếng là có trái Lệ Chi ( trái vải ) thật thơm ngon , đến nỗi Quý Phi của vua Đường Minh Hòang – Đường Huyền Tông phải sai các quan đến mùa vải ở Lĩnh nam , thì đi lấy về cho kịp lúc chín tới cho Dương Quý Phi dùng .

 ( Trái vải - từ Việt nam forum )


Quân tướng nhà Đường đi lấy vải rất khổ cực , có cả tướng An Lộc Sơn , về sau al2m pảhn chiếm kinh đô , đuổi vua quan Đường Huyền Tông , chạy đến gò Mã Ngôi , giết Dương Quý Phi cho lòng quân khỏi lọan .

Đó là một thiên bi tình sử rất đau thương của thời đại nhà Đường .

Người ta nhớ đến nàng Mai Phi ở cánh rừng mai và nhà thơ Lý Bạch , say rượu ôm trăng đi vào cõi thơ .

Nhớ đền nàng Mai Phi , người tình của Lý Bạch , không phải là chỉ nhớ thơ Đường mà thôi . người at còn nhớ đếnvăn hóa thi ca Trung quốc nhiều bài viết về trái Lệ chi của nước Nam .

Nhiều vần thơ , trang sách viết về lọai Bạch Mai là loại mai hiếm có ở đất Lĩnh nam mùa Đông mới nở hoa thơm ngát và tinh khiết vô cùng . Tiếc rằng những chứng lệiu thơ văn đó còn lạc trong đống sách cũ , khó mà tìm ra được . Nhưng sau này trong sách sử , trong huyền thọai , thần thọai truyền kỳ vẫn còn kể nhiều chuệyn về Thần Bạch mai ở đất Lĩnh nam .

Có thể xem đó là vị Thần văn hóa và chính xác đó là lọai Quốc hoa của dân tộc Đại Việt mà người Tàu rất quý trọng hơn các lòai hoa Anh đào của Nhật ngày xưa.

Dân đất Lĩnh nam trồng bạch mai , lấy từ núi Tổ về và thờ Thần Bạch mai rất trang trọng . Bọn giặc Bắc bạo tàn hễ thấy vật quý và Thần tích của tổ tiên Đại Việt thì chúng cố tình tàn phá cướp mang đi .về tàu .( Một ẩn ngữ về Hoa Mẫu Đơn của phương Nam . Việc này nhớ tới Hoa Mẫu Đơn không nở để mừng tuổi thọ Nữ Chúa Nhà Đường , bị bà ta đày xuống phương Nam , không cho về bắc ) .

Người Việt , văn hóa Việt chúng ta nên tìm lại lòai bạch mai tinh khiết nhất , đậm đà thiên hương kỳ bí nhất mà trồng lại . Nhất là xây dựng ngôi đền Bạch mai cho rộng lớn nguy nga , chúa của các lòai hoa huyền bí dân Nam .

( Hoa Mai Trắng )




Xin nhắc lại các lòai linh thú như Bạch trĩ , Bạch Tượng , Bạch hổ , Bạch viên , bạch xà , đều là lọai linh thú rất quí của văn hóa Việt . Ở Bình Định còn bài Bạch Long Quyền là bài quyền cao đẳng của võ Tây Sơn .

Màu trắng vô cùng quan trọng trong ngũ sắc của Thần Đạo Việt Nam . Ngược lại , Tàu coi trọng màu đen vì cho rằng đó là màu khởi thể .

Do vậy quân nhà Tống theo đầu nhà Trần của nước Nam , cùng hiệp đồng đánh quân Mông cổ . Quân Tống đều mặc quân phục màu đen ( đó là màu của quân tướng Triệu Trung ) mà Đức Trần Hưng Đạo cho theo và đánh trận đầu đã thắng giặc Mông . Đến đời Quang Trung Nguyễn Huệ lại cho dựng cờ đào ( màu hoa đào ) cũng là màu sắc quốc hoa của người Việt tộc .

Ngày nay chắc người Nam ai cũng biết hoa đào Nhật tân nổi tiếng ở xứ Bắc . Tiếc vì thời đại quá thiên về phát triển xây dựng đã khếin cho đất vườn đào Nhật Tân chẳng còn lại bao nhiêu , thật đáng tiếc vô cùng !


                                                                 ( Đào Nhật Tân )
Văn hóa xứ Bắc tập trung ở màu hoa đào , văn hóa phương Nam tập trung ở màu hoa mai . Lọai bạch mai vẫn còn , nhưng hầu như người nay tân tiến quên mất cội nguồn vốn quí hiếm của dân tộc , mà để tàn lụi dần . Cũng như vì nhiều lý do mà chính các triều đại phong kiến đã cam lòng bỏ quên Thần đạo thay vì phải hệ thống sáng tạo , để trở thành một tôn giáo lớn với nền văn hóa , văn minh Thần Đạo rực rỡ , để bảo vệ và phát triển đất nước bằng bản sắc riêng của Việt tộc . Để ngày nay mặc dầu vẫn còn miếu đình nhưng rời rạc và không được nhất quán , không trở thành nền tảng của văn minh chính thống .

Trong khi đó Bà La Môn là Thần Đạo Ấn Độ , Hồi Giáo hay Thần Đạo Nhật . Bái Hỏa Giáo hay Khổng giáo của ngạoi lai cứ mặc tình thao túng nền văn minh Đại việt và vẫn phát trểin tự nhiên theo tinh thần tôn trọng tôn giáo của các Nhà Nước . Nếu hệ thống đầy đủ từ đạo học , luân lý , triết học , tôn giáo thì tổng thể nền văn hóa Việt là Thần Đạo ngày nay không thua kém bất kỳ một tư tưởng hay một tôn giáo nào của thế giới . chúng ta phải tự hào vì tổ tiên xưa kia từ thời đại vua Hùng cho đến ngày nay Thần Đạo vẫn trường tồn trong dòng sử Việt .

Khi nhắc lại Thần Đồng Cổ - Lý Thái Tổ vừa mất thái tử Phật Mã chưa kịp lên ngôi thì ba vương , Vũ Đức , Đông Chinh , Dực Thánh mưu khởi lọan để giành ngôi .

Âm mưu bại lộ , được bậc trung thần Lê Phụng Hiểu giúp sức dẹp yên , để lại một giai thọai ‘’ Thanh gươm định loạn ‘’ . Phật Mã lên ngôi ( tức Lý Thái Tông ) nhận rằng trước đó một hôm đã được Thần Núi Đồng Cổ báo mộng cho biết và nhân đó sai rước bài vị ở chân núi Đồng Cổ , thuộc xã Đan Nê Thanh Hóa về kinh đô , sai dựng đền ở gần chùa Thánh Thọ ( phường Yên Thái ) để phụng thờ .

Trải qua các triều thờ Thần Đồng cổ xã Đan Nê vẫn được coi là đền chánh . Mùa xuân hàng năm và những lúc xuất quân , tướng sĩ tập hợp đội ngũ trước đền làm lễ thề , bày tỏ lòng trung thành với vua .

                                                        ( Đền Đồng Cổ  - từ            )





































Năm Canh thân niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 8 ( 1800 ) triều Tây sơn , hòang đế Tuyên Công ( em vua Nguyễn Quang Tỏan ) làm trấn thủ trấn Thanh Hóa ( tìm được chiếc trống đồng cổ đem trả về thờ trong miếu .

Đến đời Tự Đức chiếc trống ấy vẫn còn đó là chiếc trống đúc từ thời Hùng Vương

( tức là trống đồng Đông sơn ) cao hơn 2 thước ta , đường kính 1 thước 5 tấc 3 phân , không có mặt đáy , chung quanh chạm hoa văn đường nét tinh xảo .

( Tự điển DTVHVN )


                                                       ( Trống đồng Đông sơn - từ          )








Người Việt sống và phát triển nền văn hóa làng xã , làng lập đến đâu , khai hoang lập ấp rồi thì phải có đình làng để thờ Thần . Làng nào không có đình thì coi như không có văn hóa . văn hóa đình còn cạnh tranh nhau ráo riết , đình làng ở xóm Đông to hơn , nguy nga sung túc hơn đình xóm Tây , thì người xóm Đông tự hào hơn , thỏa chí hơn , rằng ta xây đình cao đẹp hơn đình nọ . Đình thờ các vị Thành Hòang do dân nhớ công ơn người hiền àti lập đức lớn mà tôn thờ . Nhưng đình Thần mà chưa có sắc vua phong tước vị của ông Thần làng thì chưa được đánh chánh ngôn thuận , vì thế mà dân Nam bộ xưa kia khi khai hoang lập làng , có đình rồi mà chưa có sắc phong của vua ban xuống , thì chức sắc trong làng phải ra tận ngòai kinh thành Huế để xin cho được tờ sắc phong của vua mới an lòng .
                                               (    Hộp đựng sắc phong - nhienthuy )








Cổ tục cũng lắm lúc sinh hủ tục , nên có đình chưa có sắc thì mượn hay mướn sắc của đình khác để ‘’chứng nhận ‘’ là đình ta hợp pháp

Như thế ta thấy rằng , với lòng tôn kính đình Thần đã trở nên quan trọng trong đời sống văn hóa người dân như thế nào .



VĂN HÓA VIỆT – THẦN ĐẠO ĐẠI VIỆT .



Về Thần , khi Tàu xâm lăng thống trị tàn bạo , hà khắc vơ vét tham nhũng đày ải dân Nam xây đình thờ các Thần Hán tộc , người dân Nam nhất quyết không tôn trọng mà chỉ tôn trọng các vị Thần của người Việt , có cội nguồn , có chức vị , làm quan lại triều đình vua chúa Việt mới thờ cúng lễ bái . Cho nên nói văn minh văn hóa Tàu , tín ngưỡng phong tục Tàu đã vào nước ta trên ngàn năm , nhưng cũng bị đánh bật ra hoặc là bị Việt hóa là như vậy . Người Việt thờ Thần linh dân tộc Việt mà thôi . Nói một cách khác tâm hồn Việt , ý chí Việt , đã đồng hóa hay Việt hóa văn minh tín ngưỡng Tàu . đạo Phật lúc thâm nhập vào nước ta , khi xây dựng chùa cũng phải dựa vào Thần thạoi ( vũ trụ quan Việt tộc ) nên mới xây chùa Pháp Lôi , Pháp Vân , Pháp Điện , Pháp Vũ chẳng khác nào thờ Thần Sấm , Thần Mưa , Thần Chớp , Thần Mây của văn hóa Thần Đạo Việt Nam . Về sau nhờ có đời Lý đạo Phật phát triển ạmnh . Nhưng chính vua Lý ( Thái tử Phật Mã ) khi nối ngôi đã dời linh vị Thần Đồng Cổ vào thờ trong thành .

Thần Đồng Cổ quan trọng như thế nào , hiển linh như thế nào mà dân Nam tôn thờ ở nhiều nơi lắm vậy !

Biểu tượng chiếc trống đồng là biểu tượng văn minh chính thống của nền Thần đạo Việt Nam .

Các vị Thần ngọai lai nhiều khi hiện hữu trong nước ta hoặc là do người ngọai bang là các dân tộc thiểu số thờ như ngừơi Tàu thờ Quan Công , người Việt gốc Thái thờ Phật , người Campuchia lập chùa theo Phật giáo nguyên thủy ( tiểu thừa ) .

Tuy sau này các nước Tây Âu như Pháp vào thống trị nước Nam , mà người theo các đạo Thiên Chúa , Tin Lành cũng không nhiều hơn là Lễ hội cúng Đình thần , dân trong làng xã đều đi lễ hội và tôn kính rước sắc Thần thật đông đảo hào hứng hơn cả . Cũng vậy , Phật Chúa hay Quan Công .. đều được cung kính , thờ phượng chung trên bàn thờ gia tiên của người Việt . đó là nguồn sống tinh thần mở ra một quan niệm nhân sinh về tổng thể đạo lý Việt và đó cũng là nét đặc thù văn hóa dân tộc – văn hóa Thần đạo Việt đã và đang vận hành trong suốt dòng lịch sử Việt .



A. TINH THẦN ĐẠI VIỆT THẦN ĐẠO .



Đại Việt Thần Đạo là đạo đức của người Việt . Đạo đức làm người phân ra đạo al2m vua , đạo làm thần bề tôi , đạo chồng vợ , đạo là con cháu , đạo làm người , công bằng chính trực .

Việc kỷ cương phép nước là việc quốc hia vô cùng hệ trọng , không vì tư vị mà muốn ban phát cho ai , cái gì cũng được .

Riêng đạo đức Đại Việt Thần Đạo khởi đầu với đức của sự Đại hành , người vươn lên lãnh đạo tòan dân , đó là một bậc tài năng quán chúng hơn người , Nên àhnh động và công nghiệp đó là công nghiệp lớn .

Tư tưởng Đại Hành của vua Lê không phải là danh xưng tự nhiên mà là thai nghén từ một quá trình suy tư lịch sử .

Tất nhiên nhà vua phải ưu tư nhiều đến vận nước , đến quốc sự , dâng hết trí tuệ cho công nghiệp vĩ đại của một vương triều .

Vừa lên ngôinlại pảhi đương đầu với giặc tham tàn phương Bắc . Vua Lê kiên cường thần dũng không sợ hãi trước thế mạnh của giặc , cho nên mới xưng vương hiệu là Lê Đại Hành .



B. ĐỨC ĐẠI HÀNH GỒM CÓ :

1 . Đại Hành là kiến tạo thời thế của một vị minh quân . Đại Hành là thiên đức , nên bậc minh quân thờ trời đem luật trời , theo ý trời mà thi hành vương pháp với thần dân , đất nước .

2. Tinh thần vĩ đại của một nhà chiến lược có Đại Hành động mới dẫn đến đại thành công . Vượt lên trên và trị quốc như một thiên thần , một siêu nhân .

Cho nên đức lớn đó người xưa bảo là thay trời hành đạo , cứu dân giúp nước .

Muốn cứu dân giúp nước , thì phải có nhân nghĩa và tài năng phi thường Đại Hành là làm việc lớn cao cả , việc của bậc minh quân , của người ái quốc ưu dân . sống trong hạnh phúc của nhân dân và sẵn lòng chết vì hạnh phúc của nhân dân , là không trái ý trời – không nghịch lòng người . Luôn để tâm đến việc không ngừng chấn hưng đất nước , nấht là văn hóa dân tộc , phải được thể hiện trong các lĩnh vực kinh tế , chính trị , quân sự , ngọai giao .. Đó cũng chính là sức mạnh trí tuệ Việt , tinh thần và Việt tín Thần Đạo . Đức sáng ấy ngày càng được huân tập sẽ là động lức vô cùng quý giá trong việc hình thành nhân cách của người lãnh đạo Việt tương lai .

Trở lại vấn đề chỉ có cái ý nghãi cao cả thiêng liêng , cái đạo đức sống và làm việc lớn để đưa đền thành công , mới để lại tiếng thơm đời đời vậy . Cho nên trước có Đại Hành và Đại Thành , sau đó là Đại Nam đời nhà Nguyễn tiếp tục viết lên biết bao trang sử vàng cho dân tộc .

Lịch sử Đại Việt vẫn luôn là sức ạmnh chân chính , chính thống của tinh thần dân tộc Việt , lịch sử ấy đã làm nên thắng lợi vẻ vang mà lúc đó trên thế giới , khó có nước nào hơn ta được . Đại Hành cao cả sâu bền hơn học thuyết tri hành , tri nan hành dị hay tri hành hiệp nhất của Vương Dương Minh .

Ta có thể nói đó là Minh Đạo , Nền văn minh Hy Lạp La Mã có Cesar , nhưng tiếc thay khi sắp thành đại nghiệp thì vị đại đế này bị ám sát chết . Khi nói công nghiệp của các nhà lãnh đạo , các vị giáo chủ , các nhà khoa học vĩ đại như Albert Einstein của thời nay đều là những công nghiệp của Đức Đại Hành mà ra . Những nhà đạo học như Đức Phật từ bi , Khổng Phu Tử , Lão Tử , Trang Tử , Đức Giê su đều là những vị đã viễn dương Đức Đại Hành của mình ra khắp trời đất càn khôn .

Như đã nói , Đại Hành là công nghiệp lớn của bậc đại tài của nứơc Đại Việt , người có Đức Đại Hành thì nắm lấy huyền cơ mầu nhiệm của Trời mà làm hòan thệin tài trí con người , là đạo trị quốc an dân vậy .

Vì thế Thần đạo xem kiêu dũng là kẻ giặc vì kiêu dũng là sinh ra tối lòng , tham ác ,bạo tàn như Sở Bá Vương Hãng Võ của Tàu , Hitler của Đức Quốc Xã … rồi cũng tan hoang cơ nghiệp vì không hợp lòng dân . Một triều đại mà pháp lý nghiêm minh thì dân giàu nước mạnh , xã hội phát triển tốt đẹp . Ngược lại , coi thường pháp luật , ỷ quyền ỷ thế chỉ được một thời rồi quần chúng cũng nổi lên đánh dẹp như Lưu Bang diệt Tần – Sở vậy thôi .

Tần Thủy Hòang thống nhất Trung Hoa cổ đại , hành páhp áp chế cả lục quốc , chỉ có pháp trị không chưa đủ cho nên chế độ nhà Tấn được mấy năm rồi mất . Nước Việt Nam từ khi vua Đinh Tiên Hòang dẹp xong 12 sứ quân sang đến thời đại Lê – Lý – Trần bắt đầu tạo dựng nghiệp lớn là nhờ có đức độ , yêu dân , páht triển võ công , xây dựng văn háo theo Tứ giáo Đồng Nguyên là Thần đạo – Thánh Đạo – Tiên Đạo – Phật Đạo . Sức mạnh siêu việt của Thần đạo hòa nhập cùng Nho – Thích –Lão trở thành học phái Tứ Giáo đồng nguyên liên kết mật thiết với đời sống văn hóa Đại Việt , nhất quán đại đồng mà không có một lân bang nào quanh Đông Nam Á có thể sánh bằng được . Các nước khác hoặc là theo đạo Phật Thái lan – đạo Hồi Nam Dương , Mã Lai Á – Phật giáo Tiểu Thừa Tích lan và Cao Miên ( Campuchia ngày nay ) chứ không có được một đại tổng thể tư tưởng lớn như vậy .

Vời tinh thần đó , người Việt xưng nước mình là Đại Việt , tự chủ sánh vai với Đại Đường , đại Tống . Tư tưởng của ông cha ta uyên bác đến thế , tại sao chúng ta không lấy quốc hiệu Đại Nam hay Đại Việt , mà phải cúi đầu tôn xưng trước người để lấy cái Giao Chỉ Quận Vương hay An Nam Quốc Vương hay Việt Nam do nhà Thanh ban cho . việc thay đổi tên nước phát xuất từ ý chí của dân tộc , không hàm nghãi với tự cao , tự mãn trước các dân tộc Đông Nam Á hay trước Trung Quốc , kể cả ngày nay .

Nét son của Đại Hành – Đại Việt là những trang vàng tiếp theo của tinh thần Việt tộc . Thần Đạo Đại Hành Đại Việt là những đức sáng của Trời , của Thần minh , của tổ tiên mà ta gìn giữ , chjấn hưng và hoằng giương và quán tâm thế giới .

Do vậy , trong thời đại này , chúng ta nên duy tu bảo tồn các di tích cũ , đồng thời kiến trúc Tổ Đình Đại Việt Thần Đạo vừa tân tiến , vừa thích hợp với uy đức bằng một nghệ thuật có chọn lọc , mang tinh thần lịch sử văn hóa , văn minh và sắc thái siêu hình của Việt Tín . Chính cái nôi vật chất ấy chứa đựng nền tảng tinh thần tín ngưỡng của dân tộc .

Thếit nghĩ cũng nên có một mô hình kiến trúc thống nhất cho các đình – điện – miếu – đền trong cả nước dù lớn hay nhỏ để làm rõ biểu tượng của hệ thống Thần Đạo Việt . ta có thể gọi là Đền Thiêng hay Đình Thần Đạo .

Chúng ta thấy Thần Đạo của nước Nhật có các đền nguy nga biểu thị nền văn minh Nhật Bản . Ngôi chùa của đạo Phật , nhà thờ của Thiên Chúa giáo , đền của Hồi giáo hay các quán của Đạo giáo . Với người Việt , tổ tiên nòi giống anh linh hộ trì cho chúng ta xây dựng chung ngôi Đền Thiêng Thần Đạo Đại Việt biểu dương cho cái khí thế hiển linh của Trời Đất Việt như câu thơ :

‘’ Nam quốc sơn àh Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư ‘’

( Lý Thường Kiệt )

Đền Thiêng Thần Đạo Đại Việt chính là Đền Nam Quốc Sơn Hà vậy .



ĐẠI VIỆT THẦN ĐẠO VÀ ĐỀN MẪU



Người Việt có đạo thờ Mẫu vị tổ mẫu , thiêng liêng nhất là mẹ Âu Cơ sanh ra chiếc bọc nở ra trăm con . Công đức mẫu ngang với công đức chư Thần , như trời đất . Đức Mẫu Âu Cơ vĩ đại hơn tất cả và con cháu của mẹ Âu Cơ giòng Lạc Việt cũng vĩ đại như Mẹ , Phụ nữ hai vai vừa gánh vác việc nước , việc nhà . Tinh thần cao cả đoan chính . Tự hào là dân tộc lớn . Không có thói xầu chạy theo văn hóa thời đại của nước ngòai . Coi trọng và làm sáng tấm gương anh thư nữ kiệt của Hai Bà Trưng , Bà Triệu , Bà Huyện Thanh Quan , Bùi Thị Xuân , Cô Giang , Cô Bắc … có bài phú điếu của cụ Phan Bội Châu phúng điếu ba vị anh thư này ( xem đền Mẫu Âu Cơ . Sau khi từ giã Lạc long Quân, đem theo 50 con trai tiên lên rừng khai khẩn đất hoang lập nghiệp , rồi bà đến thôn Đa Hòa , Phú Thọ mà về trời , để lại cái yếm đào dưới gốc cây Đa thần) .





                                                  ( Đền Mẫu Âu Cơ - ở Hạ Hòa - từ                 )





Phục sức thanh nhã giản dị , cốt cách thanh cao mỹ lệ , xứng đáng làm biểu tượng cho tấm gương bà mẹ Đại Việt .

Văn hóa , đời sống người Bách Việt và riêng Âu Việt ( Âu Lạc ) và Lạc Việt Hùng Vương là nền văn minh của chế độ Mẫu hệ cho nên sau này tục thờ Mẫu rất quan trọng . Như đã nói , từ việc nhỏ trong gia đình đến việc quốc gia đại sự , người phụ nữ Việt qua mọi thời đại đều cống hiến và đã trở thành các bậc nữ kiệt , anh thư . Hơn nữa , vai trò của người phụ nữ Việt từ nghìn xưa đã được thần thánh – thần tiên hóa rồi và người phụ nữ Việt chính thống là người nắm giữ quyền trong gia đình chứ không phải nam giới . Vì thế phụ nữ Việt không cần đòi quyền phụ nữ như Châu Âu hay Trung á là vậy . đó cũng là tính chất đặc trưng của văn hóa Thần đạo , cao xa hơn cả nền văn minh Hy Lạp , La Mã thời của Nữ hòang Cléopâtre .

Người Việt rất hiếu khách , trọng khách vì thế mà ở các ngôi đền Thần đạo nên có tục mời khách dùng trà giải nhiệt , trà sen , trà cúc nấu từ trong đền . Những pho tượng điêu khắc , tượng đá , tượng đồng đều đặt rải rác có quy củ từ cao đến thấp . Đền Thiêng cúng tế trời đất Thần linh . Đền tổ tiên nòi giống thờ Lạc Long Quân , Âu Cơ , Vua Hùng và các Thần linh trong thần thọai , huyền sử . Thờ nhân vật lịch sử , danh nhân , hiền đức , thờ sông núi , thần vật , thú linh .

A) Tạo đền trên núi bằng phẳng hay nơi gò lớn cao ráo , rộng thóang , đặt tượng và các lư hương trước mỗi pho tượng Thần đạo Việt Nam , Như tượng các Vua , Danh tướng , Các vị Thánh hiền và Danh nhân trước mỗi khu đền có hình tượng .

1. Chim Trĩ trắng

2. Rùa vàng Thần Kim Qui

3. Bạch Hạc

4. Bạch Tượng

5. Bạch Mã