Monday 25 October 2010

THƠ TUYỂN TRẦN TUẤN KIỆT

Thơ tuyển Trần Tuấn Kiệt

NỔI BUỒN VIỆT NAM

Sáu mươi năm lại một lần
Lụt trôi hằng vạn xác chồng bãi sông
Quê hương thưa nhạt sắc hồng
Ráng chiều in đỏ trăm vùng máu xương
Biển chiều thao thiết vong hồn
Rét tê đầu lưỡi khúc trường bi ca
Mai em uống nước giang hà
Giòng sông biền biệt chảy qua linh hồn
Đắng cay trăm quả bồ hòn
Em ơi hãy nhớ nỗi buồn Việt Nam


BẾN NGỰA

Xưa kia ta đến bên thành
Cỏ cây cũng nhớ thương mình ra hoa
Vầng trăng bến ngựa giang hà
Bia thành vách mộ lòng ta chợt buồn

( Trích Thơ Nai)
Trần Tuấn Kiệt

Sunday 24 October 2010

HAC THANH HOA

THẾ GIỚI THI CA QUA THI BẢN CỦA HẠC THÀNH HOA

Trần Tuấn Kiệt

Sau 75, biến cố lớn lao của lịch sử, nhiều người đã ra đi, nhất là một số văn nghệ sĩ miền Nam. Có một số nhà văn, nhà thơ dường như không quan tâm đến chuyện đi là quan trọng, nhất là thi sĩ, đồi với họ, chỗ nào cũng là Đất nhân gian, chỗ nào cũng là quê hương, cũng là cố hương. Không để ý đến vấn đề thay đổi lịch sử nhiều, và cũng không để nặng vấn đề mới hay cũ trong họ. Mặc dù cuộc đổi thay đầy thảm họa và đầy máu xương đến họ và gia đình mình, những người giông giống như tinh thần Nguyễn Du đó ở lại như Bùi Giáng, như Hoài Khanh và như Hạc Thành Hoa:
Vô ngôn độc đồi đình tiền trúc
Sương tuyết tiêu thời hợp hóa long
Nguyễn Du
Cụ ngồi chờ đợi sương tuyết tiêu thời… Còn Hạc Thành Hoa thì cứ tự nhiên tự tại trước hàng hiên của mình như bài thơ tuyệt bút với những câu:
Dù cho đi khắp trăm miền
Cũng về nằm dưới hàng hiên ngắm trời
Cái hàng hiên đó thiết thân với nhà thơ đã đành, mà còn là cảnh vật vừa tự nhiên lại vừa bất tử.
Tôi còn nhớ thời trẻ, tôi chui vào rạp Long Thuận, loại rạp bụi đời ở chợ Saigon để coi phim cao bồi Mỹ đánh đấm la hét chơi… Không ngờ gặp một truyện phim của Anh quốc thật lạ… về đôi người tình. Trong truyện hai người đứng trên một chiếc cầu bắc qua dòng sông nhỏ, nước thau thau chảy bất tận.
Hai người cùng im lặng nhìn dòng sông, họ không than như Khổng phu tử: Thệ giã như tư phù bất xã trú dạ. Than ôi dòng nước chảy mãi như thế này ru! Mà người thanh niên nói với bạn tình: Chúng ta thì sẽ tan mất, còn vạn vật thì bất tử, nó bất tử như khoảng trời trước hiên của Hạc Thành Hoa
Ngày mai tôi vĩnh biệt đời
Vẫn còn lại… một khoảng trời trước hiên.
Quan điểm về thời gian, về bất tử tính, về tồn thể đã đưa tư tưởng nhân loại ra nhiều chiều kich tư tưởng khác nhau. Thi nhân xưa nay cũng vậy. Khoảng trời trước hiên, hay dấu chân kỷ niệm hay một không gian hiện ra trong tinh thần lãng mạn của nhà thơ thật phong nhiêu huyền bí vô tận.
Thơ Hạc Thành Hoa có một không khí trang nghiêm, có chiều sâu của tâm hồn đạt đến cõi thâm sâu về cái lý nhiệm màu của cuộc tồn sinh. Anh viết từ trước năm 1975, tác phẩm được các nhà xuất bản có uy tín in và được nhiều sự quý mến của bạn đọc, sự trân trọng của anh em văn nghệ đương thời.
Về thơ lục bát, đó là loại quốc thi cua VN mà trên thế giới khó có loại nào đạt tới như thế
Hạc Thành Hoa vẫn làm thơ lục bát, vẫn ngồi trước hàng hiên của mình để làm thơ, cái hàng hiên hay cái hành lang đó được Hạc Thành Hoa ghi nhận :
Lần đi dành lệ về nhà
Hành lang hay dãy bình sa cuộc đời
Lần tay tìm vết luân hồi
Thấy mình tựa lá bay ngoài phố đêm
Khiến tôi liên nghĩ đến mấy câu thơ tiền chiến của Lưu Trọng Lư
Đợi đến luân hồi sẽ gặp nhau
Cùng em nhắc lại chuyện xưa sau
Riêng nghĩ mình là chiếc lá bay ngoài phố đêm thì đìu hiu đơn độc thật. Tâm hồn Hạc Thành Hoa như thế đó. Thơ anh toàn các cảnh u hoài khá buồn, khá cô đơn. Dù người ta nói cô đơn của thiên tài : Cô đơn đỉnh núí gần trời. Thơ Mặc Tưởng, hay cô đơn của Huy Cận : Hồn đơn chiếc như đảo rời dặm biên. Suốt một đời như núi đứng riêng tây. Cô đơn là một hình tượng của con người cao vời vợi trong niềm kiêu hãnh vô song.
Thơ anh, một loại bài đượm vẻ u hoài mênh mông đó. Ta thử đọc qua các tựa thì biết như : Lặng lẽ, Lạc loài, Tiếc thầm, Không đề, Những nốt nhạc buồn, Dự cảm lúc chia ly, Bến sương mù, Nỗi buồn vàng… Đó là cái buồn của một Omar Khayyam, của một Lý Bạch : Lai như phong hề. Thệ như phi. Bất tri hà xứ hề. Hà sở chung. Cái kiếp người Đến như gió thoảng, đi như mây bay, không biết ở phương nào đến, không biết đi về đâu. Như thế quả nhiên là nó như chiếc lá ngoài trời đêm, nó cũng chẳng luân hồi muôn kiếp như quan niệm của Phật gia nữa, nó rất gần với Bùi Giáng. Đạt đến cõi bờ kỳ ảo giữa mộng và thực chỉ có Trang Chu, rồi đến thơ Hạc Thành Hoa. Ta hãy đọc bài Bến sương mù :
Chỉ có sương là sương thế thôi
Bến xa như lẫn với mây trời
Phà đưa ta trở về bên ấy
Một bóng trăng chìm giữa nước trôi
Đúng là một nhà thơ lạ ẩn mình trên bến Cửu Long Giang, hay một cánh chim dừng cánh giang hồ ở quê hương Cao lãnh bây giờ. Người làm thơ, nếu không có chân tình, không có tinh thần lãng mạn thì thơ sẽ khô khan và giới hạn ở trong các ý niệm, các công thức, nhất là các loại thơ có tính cách chiến đấu, dù chiến đấu cho mục đích nào đi nữa. Cả đến khi thơ viết theo phong trào siêu thực, siêu hinh cổ điển và lối mà lớp trẻ đang hào hứng cho là tân kỳ, nhưng cũng bắt đầu hiện ra các ngôn từ gò bó dù gò ép theo ý hướng mới, như Tân hình thức chẳng hạn. Có là sự khuôn sáo, rỗng và khô khốc như Dadaisme ngày xưa không hơn không kém. Ta thấy trong hội họa, điện ảnh mới cũng hiện ra rất nhiều kiểu của học trò Picasso, các hình thể kỷ hà học, các ngang dọc vô tội vạ như điện tử, như hình học không gian, đượm một ít triết lý khoa học, không gian ba chiều của Albert Einstein chẳng hạn.
Thơ cũng không cần âm nhạc phù trợ khi ta thấy các « đại thi sĩ » cứ đi tìm phổ nhạc cho bằng được rồi mướn ca sĩ hò hét lên các thi bản, nhạc phẩm đó của họ.
Đời xưa các cụ thơ Trung quốc, các cụ làm thơ Việt cứ hô hào « Thi trung hữu họa » rồi đi lắp ghép các tranh cảnh bên ngoài, cố sao cho có đường nét hội họa hiện ra trong thơ. Tất cả chỉ là sự khuôn sáo. Thơ tự nó có đủ rồi cần gì đến tranh vẽ dàn ra trong đó.
Ta rất mừng vì một cố thi sĩ biết tự trọng và cả tự hào về thơ và không để những vết hoen ố cho thơ mình khi dính dáng đến họa và nhạc quá « cầu kỳ và khẩn thiết » đến như vậy.
Cho nên thi sĩ thực tài, xuất bản tác phẩm một cách tự tin tự nhiên như thế. Tất nhiên, không nóí đến tình bằng hữu sự cảm thông mà trong thơ có in nhạc và họa của các văn nghệ sĩ chung. Vài nét phác thảo hay phụ bản, và tranh bìa thi bản đã là quá đủ rồi.
Có những tập thơ làm thay đổi nghệ thuật, tư tưởng đương thời hiện đại như thơ Tô Thùy Yên, Bùi Giáng, Viên Linh…
Thế giới quan nếu chúng ta cần đến bàn về một thế giới quan của nghệ thuật hiện đại. Thật sự trong ngôn từ nay đã lộ ra khuôn sáo rồi còn gì.
Có một cụ già làm thơ Đường, thơ cụ không tài hoa như người khac nhưng cụ rất trọng thơ. Cụ không thích ngồi ngoài đường làm thơ nói thơ như thằng tôi. Cụ tiếp đãi tôi có trà rượu trân trọng và nói thơ cũng hết sức trân trọng trong quán nước có cây có cảnh hay trong nhà cụ có sẵn mọi tiện nghi. Điều này thằng tôi rất ngại, mất hứng bụi bặm của mình. Nhưng tôi học được ở cụ một cung cách thật quý trọng về sống với thơ và về lời phẩm bình về những vần thơ tuyệt bút
Cụ bảo : Thơ đó, thuộc về thơ Bề Trên ! không phải loại thơ trung lưu, hạ lưu gì cả. Tôi rất đắc hứng về lời nóí của cụ. Thơ của Bề Trên ! Trên Trời hay thượng giới nào đó chứ không phải của phàm phu tục tử ! Quả nhiên thú thật.
Thơ đó thí dụ như Nguyễn Du viết :
Vô ngôn độc đối đình tiền trúc
Sương tuyết tiêu thời hợp hóa long
hay Khổng Minh với :
Đại mộng thùy tiên giác
Bình sinh ngã tự tri
Thảo đường Xuân Thụy Túc
Song ngoại nhật trì trì
Và với Hạc Thành Hoa, đong đưa chiếc võng thời gian như Tagore nằm ngoài hàng hiên nọ đó thôi.

Trần Tuấn Kiệt

Thơ Hạc Thành Hoa
LẠC LOÀI
Niềm đau không đón được buồn
Đàn khuya thiếu nốt dìu hồn xót xa
Lần đi dành lệ về nhà
Hành lang hay dãy bình sa cuộc đời
Lần tay tìm vết luân hồi
Thấy mình tựa lá bay ngoài phố đêm
Đèn đường soi rõ dáng em
Trở về mới biết mình thèm yêu đương

BỤI VÀNG
Đã bao chiều đứng bên sông
Nước trôi vô tận một dòng mang mang
Bên kia gío cuốn bụi vàng
Mình ta với bóng chiều tàn trên cao.

THỨC
Đêm nay phố đợi giao thừa
Cành mai cũng thức đợi giờ ra hoa
Và em cũng thức trong ta
Chút gì lãnh đãng như là sương bay
Còn ta cũng thức đêm nay
Ngồi nghe pháo nổ mà ngây ngất buồn.

BẾN SƯƠNG MÙ
Chỉ có sương và sương thế thôi
Bến xa như lẫn với mây trời,
Phà đưa ta trở về bên ấy
Một bóng trăng chìm giữ nước trôi.

PHAM THAI

PHẠM THÁI (CHIÊU LỲ)
NÓI CHUYỆN TRÊN TRỜI DƯỚI ĐẤT NGHE
(thơ Chiêu Lỳ)

Người ta thường nói những kẻ ăn không ngồi rồi suốt ngày cứ ngắm trời, nghía đất, ăn nói vu vơ toàn những chuyện trên trời dưới đất, tất nhiên là khó có ai tin, hoặc cho là tiếu lâm bịa đặt mhảm nhí. Chuyện trên trời dưới đất của kẻ giang hồ đãng tử và chuyện trên trời dưới đất của kẻ có tầm vóc lịch sử khác nhau xa, và các khác hơn nữa là chuyện trên trời dưới đất của một thi nhân khác thường.
Người ăn nói lừng lẫy nhất của văn học đời Lê - Tây Sơn là đại gia thi sĩ Phạm Thái – Chiêu Lỳ. Ông có tên là Phạm Đan Phượng (1757-1793). Triều Lê suy tàn, ông quảy trường kiếm chống nhau với Tây Sơn, sau thất bại, ông quy ẩn đi tu, hiệu là Phổ Chiêu thiền sư, thọ được 35 tuổi. Ông mất để lại tập Phổ Chiêu thiền sư thi văn tập.
Tôi còn nhớ tác phẩm Sơ Kính Tân Trang. Điều mà tôi thích nhất về Phạm Thái là truyện Phạm Thái Trương Quỳnh Như –Vịnh Tây Hồ Phú và những vần thơ trên trời dưới đất của ông, trong lịch sử văn học cổ, chưa có người thứ hai.
Trước khi tôi làm thơ mới và thơ “tự do buông thả”, tôi thường học làm thơ với tập Đường thi của cụ Trần Trọng Kim, tủ sách ở quê đầy đủ các tác phẩm hay của ông Phan văn Vàng, người cậu Năm đã nuôi lớn chi tính tình và tâm hồn thơ của tôi từ lúc mươi, mười hai tuổi cho đến thành danh. Tôi thường lén, lúc cậu đi làm ở Tòa hòa giải Sa đéc, rút tập thơ Đường thi và lần dò làm thơ Đường luật. Từ tập đó, tôi có nguồn cảm hứng vô tận về thơ mãi đến sau này. Có lẽ người tôi thích nhất là thơ Phạm Thái và mối tình nghiệt ngã của trang mã thượng anh hùng Phạm Thái với tuyệt thế giai nhân Trương Quỳnh Như. Từ đó mà những vần thơ trữ tình của Phạm Thái ra đời. Có hai câu tuyệt diệu nhất trong thơ Việt xưa nay mà người đời ai cũng quý trọng như châu ngọc:
Có lẽ nét mặt lệ kiều tiên nữ, đôi mắt như giếng ngọc lưu ly của nàng Trương Quỳnh Như khiến đảo điên khách anh hùng mỗi khi nàng thoáng đưa tình với người tuấn sĩ tao nhã đó.
Thế rồi Phạm Thái bỏ tất cả công danh sự nghiệp để buông trôi cả tâm hồn khí phách của mình vào sóng mắt giai nhân, chỉ với hai câu thơ;
Công hầu khanh tướng trong thiên hạ
Rót lại chưa đầy mắt mỹ nhân.
Viết như thế Phạm Thái đã như Đinh Hùng trong Mê Hồn Ca
Ta đặt em lên ngai thờ nữ sắc
Trong vô cùng chiêm ngưỡng một làn da
Đinh Hùng đưa người yêu lên ngôi vàng của bà chúa sắc đẹp chỉ để chiêm ngưỡng sóng sắc và hương vị xác thể giai nhân, còn Phạm Thái thì đem chôn, đem dìm đắm cả nhân tài lịch sử - “Công hầu khanh tướng” trong thiên hạ vào khóe mắt thần bí của Người yêu, người có thể so sánh với một Cleopâtre hay một Bao Tự thời Đông Châu Liệt quốc.
Đến đây ta bỗng nhớ đến bao nhiêu vần thơ và nét vẽ kỳ tài nói về người đẹp xưa nay. Nét kỳ ảo thần tiên thì có trong Đường thi:
Hoa lưu động chủ ưng trường tại
Thủy đáo nhân gian định bất hồi
Xa xôi bóng bảy nhớ nhung có
Hạc vàng ai cỡi đi đâu
Mà nay hoàng hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay
Trong Thanh bình điệu, Lý Thái Bạch ráng hết gân cũng chỉ viết được cho Dương Quý Phi như sau;
Vân tường y thường hoa tưởng dung
Xuân phong phất hạm lộ hoa nùng
Vẻ đẹp đài các cao sang nhưng hé lộ quá vì một nàng Dương Quý Phi nhà Đường, đến Nguyễn Du viết về Kiều
Làn thu thủy nét xuân sơn
Mây thua nước tóc liễu hờn kém xanh
Nguyễn Gia Thiều thì kể trong Cung Oán Ngâm Khúc
Mày ngài lẫn mặt rồng lồ lộ
Sắp song song đôi lứa nhân duyên
hay
Áng đào kiểm đâm bông não chúng
Khoé thu ba dợn sóng khuynh thành
Vẻ đẹp giai nhân đó đến Huy Cận siêu hóa thêm:
Từ thuở tiên đi sầu cũng nhỏ
Nhân gian ai chép nhạc Nghê thường
Với Luu Trọng lư thì trở thành một tinh thể, một nguồn mộng bất tử của cổ kim nhân loại:
Em chỉ là người em gái thôi
Người em sầu mộng của muôn đời
Tình em như tuyết giăng đầu núi
Dằng dặc muôn thu nét tuyệt vời
Nói về người đẹp thường là vẻ đẹp thần kỳ mênh mông lộng lẫy biểu tượng cho vẻ đẹp của tạo hóa hay chân lý của thi ca tư tưởng.
Khi thơ và nhạc và họa lại lên lời, ta nghe Hoàng Trúc Ly ca ngợi vẻ siêu phàm của một nàng ca sĩ đời nay. Vẻ đẹp hòa cùng tiếng hát đã ngân lên như ngân giữa Ngân hà:
Từ em tiếng hát lên trời
Tay xao dòng tóc tay mời âm thanh
Sợi buồn chẻ xuống hồn anh
Lắng nghe da thịt tan tành xưa sau.
Sau đệ nhị thế chiến, sau tiếng gầm của Nieztsche. Le desert crois sa mạc lan dần. Thế giới càng thêm muôn trùng thảm họa. Con người nhất là giai nhân tượng trưng cho vẻ đẹp nghìn đời phải trải qua bao nỗi khổ hình tai họa của lịch sử, trong sự vô cảm của cuộc đời :
Em đi chân bước lạc đà
Suốt mùa ải hạn giữa sa mạc người
Phượng hoàng xuống đậu hai vai
Ngậm hoa quỳ nhớ thiên thai không về
Sau khi thất bại vì cuộc tình sầu, Phạm Thái đã viết Tụng Tây Hồ phú. Người yêu đã mất, thất bại vì công cuộc phù Lê tan rã, ông đành biến thành một thiến sư bất đắc dĩ, làm những vần thơ đảo điên thế sự, những vần thơ có tính chất trào phúng cợt mình cợt đời.
Tôi con ông Cống cháu ông Nghè
Nói chuyện trên trời dưới đất nghe
Độ nọ vào chơi trong tướng phủ
Ba ngàn công chúa thảy đều mê !
Ông nói thánh nói tướng, nói chuyện trên trời dưới đất đã rồi lại làm một nhân chứng của lịch sử phế hưng « xem vẫn rộn » như Bà Huyện Thanh Quan nhưng khinh bạc và tài hoa hơn nhiều. Nói như danh từ thời đại ngày nay, ông sống dấn thân hết minh trong sự buông thả của một nhân vật hiện sinh của thời Lê Nguyễn qua bài thơ sau đây.
Có ai muốn biết tuổi tên gì
Vừa chẳng ba mươi gọi chú lỳ
Năm bảy bài thơ gầy gối hạc
Một vài đứa trẻ béo răng nghê
Tranh vờn sơn thủy màu nhem nhuốc
Bầu dốc kiền khôn giọng bét be
Miễn được ngày nào cho sướng kiếp
Sống thì nuôi lấy chết chôn đi
Tranh vờn sơn thủy đây có thể là tranh thủy mặc nhưng vẽ để vờn với màu sắc của hội họa hay để bôi xóa lung tung không còn là bức tranh sơn thủy hữu tình của tự nhiên, chỉ là bức tranh với màu sắc nhem nhuốc của tâm hồn hay của chính trạng thái cuộc đời, màu sắc lợi danh của đám công hầu khanh tướng thời Lê mạt Trịnh Nguyễn phân tranh làm băng hoại cả tinh anh của sắc màu nghệ thuật, cho nên giọng khinh bạc đó mới thốt ra.
Công hầu khanh tướng trong thiên hạ
Rót lại chưa đầy mắt mỹ nhân
Đó là tiếng thơ của mặc khách tao nhân, của một thi tài trữ tình đệ nhất trong làng thơ Việt có một nhãn quan về vũ trụ vô cùng, một thế giới tang thương, một xã hội bế tắc và một cuộc đời chỉ còn có nước ẩn tu như nhà đại ẩn Nguyễn Bình Khiêm. Trái lại, đem gieo cả linh hồn vào sóng mắt giai nhân và cuộc tình trần thế thì người yêu bỗng hóa thành tượng thần vệ nữ tượng trưng cho vẻ đẹp ngàn năm và biểu tượng được thành tựu, bất tử tính của thời đại mình.
Vì thế, nàng Trương Quỳnh Như đã bất tử qua linh hồn thi ca siêu hình, siêu thực thời Trung cổ, thời đại của dòng thơ Đại Việt, của Phạm Thái.
Ông còn một bài thơ tự thuật nữa, bài thơ sánh ngang với tất cả thi hào cổ kim nhân loại vì nó vượt lên trên cả cái tầm lớn lao của lịch sử của mọi thời đại.
Ta hãy đọc và ít nhiều liên tưởng đến định mệnh giống nòi, định mệnh lịch sử của dân tộc Việt qua bao nỗi thăng trầm đầy bi tráng của lịch sử, nhất là lịch sử VN hiện đại đầy biến đổi đen tối gần như thứ lịch sử ảo vậy.
Dăm bẩy năm nay những loạn ly,
Cũng thì duyên phận, cũng thì “thì"
Ba mươi tuổi lẻ là bao nả,
Năm sáu đời vua thấy chóng ghê!
Một tập thơ dầy ngâm sảng sảng,
Vài nai rưọu kếch ních tì tì.
Chết về tiên bụt cho xong kiếp,
Đù ỏa trần gian sống mãi chi!
Bài này tôi chép theo bài thơ của Bùi Giáng đọc khi đi uống rượu với ông ở Ngã Bảy. Còn bài khác cụ Trần Trọng Kim ghi trong quyển Việt Thi thì quá hiền lành không đúng với khẩu khí của Phạm Thái Chiêu Lỳ.

Trần Tuấn Kiệt

SINH NHAT

NGÀY SINH NHẬT EM
Ngày sinh nhật em
Cỏ hoa tưng bừng nở nơi vườn địa đàng
Mùa của những cánh phượng hoàng
Vừa gáy ở đầu non
Em bước đi với quả tim hồng
Chan chứa yêu thương trần thế
Ôi cát bụi mịt mùng
Những cơn giông thổi đến
Em chống chọi con thuyền trên biển khơi
Cánh buồm xanh lảo đảo
Và bờ bến xa khơi…
Và con thuyền Em vào bến bờ hải đảo nào
Của nàng Tiên hiền huyền bí
Ngày đầu tiên trong lịch sử loài người
Em đã ra khỏi gần nửa đời người
Mà phong ba gầm thét ngoài khơi
Ngày sinh nhật Em
Có những con voi già mang nguồn thức ăn
Có những đàn chim tung cánh
Và giọng hát đầu tiên cất lên
Đó là ngày sáng thế bình yên
Vị thần phương Nam đến tặng em
Một ngọn lửa thiêng bừng sáng trong tim
Thế giới đầy giông bão
Em vẫn vui chơi nơi cuộc thế
Với tình yêu cao cả
Em thắp sáng ngọn nến vào đời
Soi rõ vực thẳm ngàn khơi
Em thắp sáng ngọn lửa thiêng
Hướng đến ánh dương nồng ấm
Và đi tìm hạnh phúc vĩnh cửu
Của một lần yêu thương cõi thế
Mùa giông tố lại qua
Cơn sóng dữ đã im lìm
Nơi hải đảo của lòng anh
Đang đợi chờ bàn tay em thiết tha
Như thiên nhiên kỳ diệu
Đang đợi chờ đôi mắt xanh ngời
Nguồn sống rạng rỡ và bình yên
Như một ân phúc hiền hòa
Từ các nàng tiên hiện xuống thế gian
Để cho tâm trí mơ màng
Cởi dần vết thương của lòng anh
Từ muôn thu thế kỷ
Ngày em sinh ra đời
Tiếng chúc tụng đầu tiên
Vẫn uyên nguyên nặng chĩu trên cành
Quả thơm ngọt dịu mùi da thịt
Những hố huyệt lầm than
Dưới gót chân mềm
Em vẫn luôn dấn bước
Có một lịch sử nào
Tối tăm hơn mùa địa ngục
Đã phủ bóng đen
Lên cõi trần ai
Chợt có tiếng cười xao xuyến nào
Xóa nhòa mọi vết đen trong đêm tối
Chợt có hơi thổi nào
Bừng bừng tia sáng chung quanh
Lấp lánh những ngọn nến hồng
Chúc tụng Em
Mùa sinh nhật mới
Hoa lá mầm tươi và nhựa mới
Đang dâng tràn nguồn sống
Như hồng ân của trời đất
Đã một lần tỏa xuống trên đôi vai hồng của em
Em gởi hy vọng đến vì sao nào
Giữa ức triệu vì sao
Đang soi rọi đến thế nhân
Trong ngày sinh nhật em
Ôi đêm thâu
Nơi mà cát bụi đang chìm sâu
Viên bích ngọc của linh hồn em
Tỏa sáng nhiệm màu
Em có nghe lời hát
Tung đôi cánh mênh mông
Đang chúc tụng em
Mùa sinh nhật tuyệt vời
Như chiếc thuyền trôi giữa điệu nhạc
Cung đàn vũ trụ
Bài hát thiên thu ngân nga
Lời thơ tự tình bay theo ngọn gió
Tự đỉnh trời nào rơi xuống lòng em
Em có một tình yêu nào
Gởi đến một vì sao
Của đôi ta nơi huyền vi mộng ảo
Trong hạnh phúc vô biên
Lứa đôi tình nhân
Mang đôi cánh phượng hồng
Bay vút không gian
Em mang hy vọng nào
Giữa cát bụi trần gian
Cuộc chiến tranh tàn
Em có còn vành môi thắm
Ca hát lời thiên thâu
Ca ngợi ân tình
Tận tinh cầu nào còn vầng trăng sáng
Ấp ủ tình yêu thương
Trong ức triệu vì sao
Em đừng để vì sao băng
Đừng cho mộng úa tàn
Vì trong trái tim hồng tươi đẹp
Mãi mãi ngân cung điệu thăng trầm
Nơi cuộc sống hỗn mang
Ôi đêm thâu
Mùa sinh nhật Em
Đầy trời ức triệu trăng sao
Mênh mang bài ca vũ trụ
Đang buông xuống dặm hồng
Âm vang bất tận
Của tình yêu đôi ta
Cùng thời gian vĩnh cửu
Ta cầm chặt tay nhau
Nhảy múa như trẻ thơ
Quanh chiếc bánh tròn
Những ngọn nến lung linh
Màu hào quang tuổi thơ
Tuyệt diệu không bờ
Đêm sinh nhật của em
Hạnh phúc tràn ra ly rượu say
Nồng nàn như nụ hôn
Nụ tình bất diệt của đời ta
Của những vần thơ
Anh viết trong mùa sinh nhật Em
Những bài ca
Đang trỗi dậy
Ôi của mùa yêu đương
Của ái ân nồng cháy
Của vị thần lửa bước ra từ mê cung
Đến chúc tụng mùa sinh nhật Em
Trong lúc chờ đợi ánh dương quang
Ngời sáng ở phương Đông
Những ánh nến hồng đã tắt
Còn lại bầu trời
Soi ấm cõi đời
Trong ngày sinh nhật bừng vui

Thursday 22 July 2010

TẠI SAO PHẢI XÂY DỰNG NGÔI ĐỀN THIÊNG


TẠI SAO PHẢI XÂY DỰNG NGÔI ĐỀN THIÊNG

Tại sao phải xây dựng Ngôi Đền Thiêng

Điều trước tiên là đặt nền tảng vững chắc cho tôn giáo Đai Việt Thần Đạo
Đền Thiêng là nơi thờ Trời và các vị Thiên thần và Nhân Thần của Việt tộc
Đền Thiêng – tổng thể duy nhất như một Thánh đường Hồi Giáo. Một giáo đường Thiên chúa giáo hay của Bàlamôn giáo. Nơi đây thờ đấng tối cao là Trời- tức Thượng đế của người Việt. Thờ tất cả Thần thọai cổ tích huyền sử Việt từ Mẹ Âu Cơ và Lạc Long Quân đến tất cả các vị thần được sắc phong của vua trải qua các thời kỳ lịch sử cổ đại cho tới hiện đại (ghi chú theo sử liệu các vị thần của Trần Trọng Kim)
Trong khi từ xưa tới nay người Việt thờ Thần ở địa phương tất cả các nơi trong nước thì ngày nay được hệ thống đặt thành án thờ chung với 4 chữ Đại Việt Thần Đạo
Hệ thống từ Thượng đế - Thiên Thần- Nhiên Thần- Nhơn Thần và cả Thần Thoại - Thành ra một hệ thống thờ tự lớn - vĩ đại - để không như trước đây thờ ở Tứ xứ thập phương mà người Âu Châu hiểu lầm là tôn giáo Đa Thần như các thần ở Châu Phi trước kia.
Tư tưởng Đại Việt Thần Đạo là tư tưởng Nhất Thể Đa Nguyên - Tính. Tất cả chư thần đều qui tụ dưới chân đấng Tạo Hóa tối cao của dân tộc Việt - là Ông Trời
( mọi sự đều Nhất quán)

Ngôi đền Thiêng là một đại giảng đường lớn, ở địa phương ngoài các lăng tẩm, đền, đình miếu thờ thần ( để dân tự do tính ngưởng) thì lập một giáo đường Thần đạo - như nhà thờ của các tôn giáo khác. Cần các nhà kiến trúc ngày nay phát họa ra Đại Giáo Đường Đại Việt Thần Đạo và các giáo đường ở các địa phương cùng một hình thái giống nhau (thí dụ như Cao Đài có các Thánh Thất Cao Đài ở địa phương và Tòa Thánh Tây Ninh vậy)
Ngôi Đền Thiêng của Đại Việt Thần Đạo đã có viết và giảng rất nhiều trong bộ sách ĐV Thần Đạo rồi. Đó là cái gốc - nơi căn cơ cội nguồn để phát triển tôn giáo Chính thống người Việt xưa nay. Ban đầu xây dựng nhỏ gọn, sau có phương tiện thì xây dựng vĩ đại hơn.

Vài vật dụng nền tảng cho nghi thức Thần Đạo

Chúng tôi xin đơn giảng hóa vài nghi thức Đại Việt Thần Đạo - mong quí bạn lưu ý
1- Bàn thông thiêng : thờ Trời đất ở trước nhà- một tấm ván gỗ sạch sẽ, vuông chừng 5 tấc - đặt trên một cột như ( chùa một cột) nhưng là bàn thông thiêng như ở quê miền nam thờ và cúng nước, thấp hương buổi chiều
2- Ở đình miếu có Trống đại để đánh mở đầu các buổi lễ hội cúng Thần
( Thành Hoàng bổn cảnh) hoặc ở đền Thiêng - thờ Trời và chư thần
1) 3 hồi trống đại hoặc 3 tiếng kim khánh
2) 3 hồi trống đồng ( 12 cái)
3) 3 hồi chiêng ( là để thu quân hoặc báo hiệu chấm dứt lễ hội)

các dụng cụ nhạc khí này có 1 trống lớn nhất, 1 kim khánh lốn, 12 trống đồng vừa, 1 cái chiêng và các dùi trống. Thêm bộ trống võ Tây Sơn
3- Lễ hội điểm thêm Trống Võ Tây Sơn căn bản của Đại Việt Thần Đạo
4- Múa Nhật Nguyệt Linh Thần ( đoàn vũ công 36 vị)

Sunday 11 July 2010




MỘT MÙA XUÂN TRỞ LẠI CHO ĐỜI NGHỆ SĨ
Trần Tuấn Kiệt

Ngày giáp Tết ở Saigon nóng ran ran, tôi đến Linh ở đường Nguyễn Thiện Thuật, cũng để nhờ anh ta giúp vài chuyện về dịch thuật.
Trước nhà Linh có hai người đàn bà Trung hoa bán khoai lang nướng. Tôi mua hai củ khoai tím Dương Ngọc ăn rất thơm ngon, ngồi xuống xe nước mía, tôi hỏi bà chủ Linh chừng nào về. Bà ta bảo cậu mới đi uống cà phê đâu đó. Bác ngồi đợi không bao lâu Linh sẽ về. Ít khi nào Linh đi đâu vì bà mẹ bắt anh ta coi nhà không cho ra ngoài. Tôi cười Linh đã là bác sĩ rồi mà.
Cách đây khoảng gần bốn mươi năm, đây là con đường thân thương của tôi nhất. Tôi ở đậu để đi học trong xóm ở đường Hai Mươi bây giờ đổi tên là ĐBPhủ. Lịch sử đã thay đổi hết. Và lớp trẻ như Linh lớn lên sau 75 không còn biết gì về những người tăm tiếng trước kia nữa.
Con đường này trước 75 có rất nhiều quán cà phê văn nghệ. Quán nào cũng vang lên bài Sang Ngang của Đỗ Lễ "Đưa em sang sông...". Bọn thanh niên cứ quây lấy các cô gái xinh xinh và lãng mạn suốt ngày yêu cầu quán cho nghe cứ sang sông sang ngang... Xuyên qua đường này đến Phan Thanh Giản (Điện Biên Phủ), tôi thường đi với người bạn cùng quê lên là dân Sa đéc bạn học lớp ba, lớp tư tiểu học. Hắn lên Saigon trước và gặp tôi ở quán cà phê vỉa hè ở đó. Hắn bảo:
- Tôi có đọc anh trên báo Phổ thông. Anh có biết Đàm trường viễn kiến của ông Nguyễn Đức Quỳnh trong hẻm gần chùa đó không?
- Không.
- Ở đó, ngày nào cũng nhiều người tụ tập nói chuyện xôm tụ lắm.
Lúc này tôi và Hàn Giang Dương Thành Long và anh Mẫn bút hiệu Giang Châu, cả ba thành lập thi đoàn Tam Giang, sau có thêm Chương Đình Thu (Bạch Lộ) nữa. Bọn trẻ chúng tôi thời đó mê thơ văn quên cả ăn cơm, thường thì chỉ lấy cà phê, thuốc lá làm thức ăn chính.
Hắn dẫn tôi vào nhà cụ Nguyễn Đức Quỳnh, căn nhà nằm ngang chắn ở cuối con đường hẻm rộng. Thường khi có xe bộ trưởng Công dân vụ Ngô Trọng Hiếu vào đó. Cụ Quỳnh là cố vấn của ông Hiếu. Tôi nhớ hôm đó cụ Quỳnh đang ca ngợi tranh Nguyễn Trung, cho họa sĩ là người vẽ ngựa giỏi nhất. Cũng không ngờ trong buổi đầu tiên đến, tôi gặp nhiều người đã nghe danh trên văn đàn ở đó. Lý Đại Nguyên như đệ tử ruột của cụ Nguyễn Đức Quỳnh cùng Duy Sinh là con cả cụ Quỳnh lý luận, tranh luận sôi nổi về vấn đề văn hóa mới và văn hóa dân tộc.
Ban đầu tôi ngỡ tất cả cùng nhóm nhưng không phải. Duy Lam và Thế Uyên thường bài bác tranh Tạ Tỵ, Duy Sinh lại có vẻ chống lại bố là cụ Quỳnh với tư tưởng hiện sinh mới nhập vào VN đang cùng nhóm Sáng Tạo có Mai Thảo làm chủ súy. Có mặt rất nhiều người như Hoàng Bảo Việt, Hồ Nam, Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh Hiệp, Tô Thùy Yên, Mai Sử Giương là Nguyễn Nghiệp Nhượng...
Hôm đó là ngày đầu xuân nên có bánh mứt Tết. Ngồi cạnh tôi là Trần Dạ Từ bút hiệu Hoài Nam dường như có xuất bản quyển thơ Hương Cau Quê Ngoại. Cả nhà nhiếp ảnh Nguyễn Cao Đàm đang phàn nàn về cái giải thưởng hạng nhất Quốc tế chưa được đi lãnh vì nhà nước bắt đóng thuế. Phần nhiều ở đó là các nhà văn miền Bắc di cư 54 vào Nam thời đệ nhất Cộng hòa Ngô Đình Diệm.
Cụ Quỳnh nói dõng dạc:
- Tôi bảo đảm anh em cứ tự do phát biểu, cả chỉ trích chính quyền. Các anh em sẽ không hề bị hỏi han bắt bớ gì cả khi ở nhà này trở về.
Tất nhiên cụ Quỳnh đã có bảo đảm của Ngô Trọng Hiếu, một ông bộ trưởng quyền uy đứng vào hàng thứ ba chỉ sau Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu thời đó. Cho nên anh em văn nghệ tranh luận nhau quyết liệt nhất là nhóm Sáng Tạo có Duy Thanh với nhóm Văn Hóa Ngày Nay, hậu thân của Tự Lực Văn Đoàn với Thế Uyên và Duy Lam là hai kiện tướng.
Dương Nghiễm Mậu, Trần Dạ Từ, Hồ Nam... phát biểu hầu như thao thao bất tuyệt. Đã gọi là Đàm Trường Viễn Kiến thì tất mọi khuynh hướng, mọi tư tưởng văn hóa tôn giáo chính trị nghệ thuật đều được đem ra mổ xẻ thẳng thừng và với các nhà văn hóa mới đầy nhiệt huyết. Chẳng bao lâu, cái lò luyện người với tư tưởng tổng hợp, gọi là Tổng Thức Vận đó tiêm nhiễm tôi hồi nào không hay. Hồi đó còn có nhóm Hoa Mười Phương của Kiều Thệ Thủy. Tờ Mã Thượng của Linh Thi và Sinh Lực của Đồng Tân đã viết về tôi khi ấy chưa đầy mười tám tuổi. Có lần mọi người đề cập đến Bùi Giáng cho là một hiện tượng lạ. Cụ Quỳnh nói Bùi giáng là Lão tử thời nay. Tôi chơi thân và hiểu Bùi Giáng nên không đồng ý với nhận xét này. Tôi về ghé kể cho Bùi Giáng nghe. Ông cười cười lôi tôi ra khỏi nhà, nói:
- Mình đi ăn tiết canh vịt ở Ngã Bảy đi. Ông rất thích tiết canh.
Rồi ông đem chiếc xe Mobylette ra chở tôi đến Ngã Bảy bây giờ là đường Lý Thái Tổ gần Ngã sáu Chợ Lớn, nơi đó bày đủ các hàng ăn uống nhậu nhẹt. Lúc này Bùi Giáng còn làm giáo sư dạy ở trường Tân Thanh, có cả nhà viết sử Thiên Giang, triết gia Đệ Tam là Tam Ích sau dạy Pháp văn, nghiên cứu viết về Hiện sinh và Phật giáo.
Những người này là thày tôi ở trường Tân Thanh. Lúc đó tôi theo Nguyễn Vỹ muu sinh và hằng ngày vào nhà cụ Lê văn Trương ở Ngã tư quốc tế chơi, có lúc Trầm Tử Thiêng từ Khánh Hội cũng qua chơi. Cả Thanh Quang sau chịu ảnh hưởng Phi Lạc Sang Tàu của Hồ Hữu Tường cùng bà Trúc Lâm Nương làm giáo chủ đạo Hồng Môn ở Vạn Kiếp (Gia Định).
Đi du xuân mà ăn tiết canh thì tôi không thích nhưng chiều Bùi Giáng nên theo cũng đi theo. Cách cái quán tiết canh đó là quán chị Lệ Liễu. Chị mở quán ca nhạc gần đó bày sân khấu nhỏ để các ca sĩ lên mà ca hát ngâm nga thâu đêm suốt sáng, phía trong quán nổi tiếng nhất là nơi ăn chơi một thời. Đại đức Trí Minh, bạn của Vũ Anh Khanh lúc chưa đi tu thường đến đây vừa nhậu, vừa hát và ngâm thơ của ông, dẫn theo Mặc Tưởng và Thùy Dương Tử. Tôi muốn dắt Bùi Giáng vào quán Lệ Liễu chơi nhưng ở đây quá bụi không thích hợp với ông nên thôi.
Trời xuân rộn rã, tôi vừa uống chút bia thấy ngà ngà. Nhìn qua bên kia đường, một dãy nhà dọc Lý Thái Tổ đang bán đủ loại hàng hóa, máy móc như mọi con đường khác. Phía sau lưng dãy nhà mơí xây này ngày xưa bãi cỏ mọc vô tội vạ, con đường đó vào sâu hơn là nơi "cát cứ" của ban Văn nghệ địa phương quân do đại úy Tô Công Biên coi. Tôi không nhớ lúc đó Du Tử Lê là thiếu úy hay trung úy cũng ở đó.
Hằngngày Du Tử Lê dẫn ca sĩ lên Đài phát thanh quân đội nơi có đại tá Cao Tiêu, Tô Kiều Ngân, Tô Thùy Yên, Tường Linh và Phan Bá Thụy Dương thường có mặt. Đó là Cục Chiến Tranh Tâm Lý ở ngay Sở Thú. Khi tôi đang làm báo, viết báo cho Phổ Thông, trong Tao Đàn Bạch Nga của Nguyễn Vỹ, một hôm đại tá Phát (Nguyễn Tấn Phát), một bác sĩ từng là bác sĩ riêng của Ngô Đình Diệm bảo tôi vào lính Văn Nghệ Địa Phương Quân. Ông Phát cũng gia nhập tao Đàn Bạch Nga với Thu Nhi, Minh Đức Hoài Trinh, Tuệ Mai, Nguyễn Thu Minh, Bạch Yến. Thế là tôi vào Ban văn nghệ Địa phương quân, có nhiệm vụ viết sapô cho ca sĩ giới thiệu các bài hát.
Ban văn nghệ này rất nổi tiếng, người điều khiển là anh Nguyễn Hữu Sáng, em ruột Nguyễn Hữu Thiết là người điềm đạm, ít nói và có tài.
Thời ở Địa phương quân, tôi biết Lam Phương, anh hiền lành, cũng ít nói nhưng hay vào trại trễ, bị phạt chạy vòng sân. Cái thân hình bệ vệ của Lam Phương lúc bị đại úy Tô Công Biên phạt chạy vòng sân khiến ai cũng tức cười. Ngày nào mọi người cũng tập dượt ầm ĩ cả trại. Sáo có Nguyễn Đình Nghĩa, Khả Năng, Phi Thoàn là hai cây cười rôm rả nhất. Có một anh hề nổi tiếng chịu chơi nhất, hễ buổi sớm lôi nhạc cụ ra thấy thiếu cây đàn gì thì y như bắt anh ta phải "đi chuộc" ở tiệm cầm đồ về là có ngay. Đó là danh hề Thanh Việt có cả Tùng Lâm nữa. Cũng một ngày Tết khác, tôi gặp Khả Năng sau 75 ở rạp Rex thì anh vui vẻ nói "Mới ở trại cải tạo về". Nghe nói anh trốn qua Thái lan hay Mã lai gì đó rồi mất tăm hơi luôn.
Tôi ngồi với Bùi Giáng mà nhớ tới những ngày cùng Du Tử Lê ở ban Văn nghệ Địa phương quân, sau tôi bị chuyển qua hậu bị quân đưa vô Rừng sác rồi biến luôn không vào trại nữa. Bùi Giáng gọi thêm rượu rồi ra ngoài, lát sau có người cầm vào hai dĩa bánh ướt to tướng. Bùi Giáng nói:
- Aên đi. Anh còn vào Đàm trường viễn kiên không ?
Tôi vừa ăn vừa lắc đầu.
- Viết báo với Chu Tử lo kiếm cơm. Từ ngày cụ Quỳnh mất tôi không tới đó nữa.
Bùi Giáng hỏi:
- Chu Tử có tốt không?
- Tốt, vui với anh em lắm. Có Hồ Nam, Trần Dạ Từ, Duyên Anh làm ở đó nữa, nhất là Tú Kếu.
Tôi hỏi:
- Ông có đọc thơ Tú Kếu?
Bùi Giáng trả lời:
- Tú Kếu làm thơ lục bát hay lắm. Còn thơ đen thì không có đọc.
Sau đó tôi nói với Chu Tử lấy tập sách kiếm hiệp của Ngọa Long Sinh là Kim Kiếm Điêu Linh do Bùi Giáng dịch đưa vào báo Sống. Sau biến cố 75, mọi sự đều thay đổi. Bạn tôi Trầm Tử Thiêng qua Mỹ viết bản trường ca Áo dài Việt Nam tôi được nghe một lần. Rồi anh mất bên đó.
Mùa xuân này tôi chợt có dịp trở về con đường hẻm Bàn cờ cũ gần nhà cụ Quỳnh nơi cư xá Đô Thành có trường Tân Thanh xưa nay đã biến thành khách sạn. Đi sâu vào cư xá Đô Thành tôi từng vào thăm chị em Khánh Ly ở một căn gác nhỏ dường như mướn trong đó. Thấy tôi đến cả hai ngó nhau cười như không tiền đãi cà phê đen nữa. Em gái Khánh ly rất đẹp, lần nào tôi đến cũng nói: Anh Kiệt ngâm thơ cho em nghe đi, sau này cô lấy Văn Quang, anh vẫn còn ở lại VN.
Tôi ngồi tư lự một lát thì Linh và San Hà đi đâu trờ về. Linh mời:
- Vào nhà chơi đi anh
- Thôi mình ngồi uống nước mía, anh có việc nhờ em.
San Hà báo tin:
- Từ ngày chị Huệ Thu ghé thăm anh bị trợt thang gác đến nay cũng chưa lành.
- Chị Huệ Thu là người có lòng tốt. Nghe nói chị tửu lượng cao. Trùng Dương không những viết truyện hay mà uống rượu cũng cừ lắm, Tú Trinh cũng vậy. Có lần Tú Trinh ghé nhà không gặp nói với con gái anh sẽ chở anh đi nhậu. Những người bạn trước đều rủ anh nhậu cả chỉ có em bảo anh thôi hút thuốc.
- Anh bị bệnh, hút nhiều quá làm sao du xuân. Sao cây hải đường năm rồi anh không giữ lại?
- Phải, cây hải đường cành lá xum xuê đẹp lộng lẫy, Phạm Cung xuống xem nói đó là đại hồng trà, hái lá nấu làm trà xanh uống ngon lắm. Nhà Hồ Hữu Thủ rộng rãi, năm nay anh định mua tặng anh ấy một cây hải đường, nhà mình chật hẹp không trồng lâu được.
À quên nhắc lại ban Văn nghệ Địa phương quân, anh em văn nghệ kẻ còn người mất. Vừa rồi xem băng Thúy Nga thấy có chương trình về Lam Phương. Nhưng anh nay đã già, bị tai biến mạch máu não, tay phải không còn đàn được nữa. Nhớ tới Lam Phương ngày nào với hàng trăm bản nhạc đi vào lòng người. Thật buồn cho số phận tài hoa của một nhạc sĩ.
Khi tôi làm báo Sống, thỉnh thoảng Khánh Ly ghé chơi. Chúng tôi hay ngồi ăn hủ tíu ở quán Tàu đường Gia Long. Lúc đó, ghế chủ tịch đại diện sinh viên Văn khoa có Trần Lam Giang, sau là Phạm Quân Khanh, Phạm Quốc Bảo, Ngô Vương Toại. Thêm anh em Cung Văn Nguyễn vạn Hồng, nhà thơ nữ Hồng Khắc Kim Mai ở Văn khoa thường lui tới nhà tôi. Chúng tôi ngồi quán bên hông Lê Thánh Tôn. Thường xuyên có Khánh Ly và các anh em nhà báo, nhạc sĩ, họa sĩ cũng ở đó. Một lần khách lạ quen với Khánh Ly tạt vào, nàng vội giới thiệu. Anh Kiệt nhà thơ nổi tiếng đấy... nhưng em không biết được thơ hay hay dở... rồi Khánh Ly cười rất vui.
Ngày đó trong khuôn viên đại học Văn khoa có dựng một gian nhà gỗ nhỏ của nhóm họa sĩ trẻ gồm Mai Chửng điêu khắc, Nguyễn Trung, Nghiêu Đề, Hồ Thành Đức... Căn nhà gỗ này do Nguyễn Trung và Hồ Thành Đức xin được trong không quân đem về dựng lại. Hằng ngày Nguyên Khai và Nguyễn Thành Nhơn đến điêu khắc chơi và thoạt tiên cũng là chỗ ngủ của Nguyễn Nghiệp Nhượng và Cù Nguyễn. Sau 75, khi qua đường Lê Thánh Tôn, tôi nhớ lại cái quán cà phê cũ đã thay mới, các cây điệp (phượng đỏ) cội rất lớn, thân cây bị cưa cụt đã đâm ra thêm nhiều cành nhánh mới, có nhánh đã ra hoa. Tôi đứng lặng nhớ về bạn bè hay gặp nhau ở đấy. Trần Lam Giang, Lê Tài Tấn, Phạm Quốc Bảo và Bùi Ngọc Tuấn, nhớ tới các bạn họa sĩ, Khánh Ly, Nguyễn Thụy Long, Lam Thiên Hương thuở còn xuân sắc tươi đẹp. Bây giờ Lam Thiên Hương trở thành bà ngoại già thường dắt cháu ngoại đến Cung văn hóa Lao động chơi.
Lê Thánh Tôn và những cành điệp cũ gợi cho tôi rất nhiều về lịch sử của một thời. Nay mùa xuân trở lại, con đường vẫn rộn ràng xe cộ, khách nước ngoài đi lại dập dìu. Cả mấy chục năm ở Saigon mà tôi cứ quanh quẩn mãi Thị Nghè như một thằng Mán không biết gì nhiều sự đổi thay. Năm 2005 Phan Bá Thụy Dương lần đầu tiên về nước ghé thăm tôi hai đứa mới trở lại nơi đây nhìn sang Pagoda cũ với tâm trạng ngậm ngùi. Cũng chính từ gốc phố nhộn nhịp này tôi và PBTD đã làm 2 bài thơ Tưởng Niệm Hoàng Trúc Ly.
San Hà chở tôi trên chiếc xe Honda thời tiền sử chậm chạp, tôi nóí:
- Chạy cẩn thận thôi coi chừng đụng người ta đấy
San Hà cười.
- Không sao đâu. Để đó em chạy an toàn chở anh đi xem hoa.
- Anh nghe nói trong Tao đàn có dựng đền Hùng vương, xem hoa xong rồi ta vào lễ đền tổ nghe .
Rồi San Hà cho xe rẽ qua cửa Tây Saigon đi về phía bùng binh. Chợ hoa chỗ ấy thật đông đúc, Hải đường, dạ lý và muôn hồng nghìn tía đua nhau khoe sắc mừng mùa xuân mới.

Trần Tuấn Kiệt

THẦN CẦU MẠNG

Saturday 12 June 2010

ĐẠI VIỆT THẦN ĐẠO 01

MỞ ĐẦU


Người Việt có một nền văn hóa lâu đời ? Vâng !

Lâu đời là từ thửơ nào ? Và ta có một nền văn hóa lâu đời ấy , tại sao không thấy ai nhắc đến cốt lõi của nền văn hóa lâu đời này là triết lý , triết học và nhất là một nền tín ngưỡng chính thống ? có hay không ?

Nói đến một nền văn hóa , một tín ngưỡng chính thống mà thiếu căn cơ của một triết thuyết chẳng hóa ra người Việt chỉ có cái vỏ văn hóa bọc ngòai mà không có cái ruột bên trong . Tại sao thế ?.

Và ta cũng nên đặt ngược lại vấn đề quan trọng tối mật thiệt , tối thiết thân này . hỏi lại vấn đề ý niệm siêu hình và đạo học , Có hay không ? Hay chỉ đi vay mượn hết Đông sang tây đem về làm cái của mình ?

Thật ra câu chuệyn chính thống triết và chính thống giáo vốn dĩ đã có tự nghìn xưa và sừng sững phát triển đến ngày nay vô cùng vĩ đại như lịch sử tiến hóa - sinh tồn của dân tộc Đại Việt , không phải là nhỏ .

Câu chuyện bắt đầu từ dòng giống Việt thời thượng cổ - dòng Bách Việt ở phía Nam sông Trường Giang đến Bắc Việt cùa ta ngày nay , theo giáo sư Trần Lam Giang biên khảo và diễn dịch :


A.BÁCH VIỆT

GỐC NGUỒN , VĂN HIẾN BÁCH VIỆT VÀ SÁCH BÁCH VIỆT HIỂN CHÍ

Theo cuốn sách sọan từ thời nhà Minh , nhiều danh nhân ta tưởng người Hoa thật ra gốc Bách Việt : Thái Luận phát minh ra giấy viết , Âu Dã Tử rèn kiếm Thái A , Khuất Nguyên nhà thơ làm '' Ly Tao '' , đệ nhị tài tử của Trung Hoa ...

Nhân lọai dù sống ở bất cứ không gian và thời gian nào , cũng đều có chung yếu tính làm người ; cao cả vượt trên muôn lòai . Hòan cảnh sống với những điều kiện khác biệt đã khiến cho phong tục tập quán của mỗi xả hội có những nét riêng tư , độc lập , nhưng tựu trung , cốt lõi của đạo đức nhân bản vẫn đồng nhất với nền tảng là đức nhân . Đi vào đáy cùng giáo lý của những tôn giáo chính đáng sẽ chỉ còn tấm yêu sáng dục .

Trong cuộc đời thực tế , gian lao đối đầu với những khó khăn , xử trí dụng mưu nhiều khi thái quá , uể ỏai , lu mờ dần đức nhân , tình người rạn nứt , đưa đến những tranh đua , đố kỵ , đến cả chiến đấu hận thù . Người bi quan nhìn dòng lịch sử nhân lọai như lịch sử chiến tranh nối tiếp không thôi , qua từng thế hệ . Kẻ đi xâm chiếm , gây việc binh đao , dù có đeo mặt nạ , dười hình thức giá trị nào , thực chất chỉ là tranh quyền cướp lợi , tồi tàn , đê hạ.
Phương Đông , học thuyết Đại Đồng nhân bản lấy nhân làm nền tảng , lấy Nghĩa làm chất liệu , lấy lễ làm trật tự , lấy Trí làm ánh sang soi đường , lấy Tín làm quy ước xử thế , nhằm đưa nhân lọai đến một xã hội hài hòa lẽ sống tình người , không đấu tranh sân hận , không phân ly giai cấp , không giành giật lợi quyền .Học thuyết này được đề xướng hơn 2500 năm nay , xã hội Đại đồng vẫn chưa một lần thành tựu .
Dọc hơn 2500 năm ấy , nhân lọai có tiến hóa về văn minh vật chất nhưng tuyệt nhiên không một bước tiến hóa về văn hóa nhân sinh . Nhân lọai nếu không níu vào cái phao đạo đức hoặc tôn giáo đã có từ thời xưa xa thẳm để tâm hồn được sống thì hẳn đã chết đuối trong bể vật chất phi nhân .
Các thế lực quản trị Trung Hoa , qua nhiều triều đại , đã nhân danh học thuyết Đại Đồng nhân bản , gian ngoan với mặt nạ ‘’ tình bốn bể là nhà ‘’ , ‘’nghĩa bốn bể là an hem ‘’ , dung bạo lực đem ách đô hộ đè lên các nước nhược tiểu , dân các nước ấy phần bị tàn sát , phần bị đồng hóa để cho Trung Hoa mở rộng biên cương . Bách Việt cũng không tránh khỏi dòng cuồng lưu tham tàn ấy . Cho đến bây giờ , dân vùng Mân Việt , Âu Việt , tây Việt , tuy có biết tổ tiên xa xưa thuộc dòng Bách Việt , nhưng than phận đã lẩn chìm vào Tàu . nay tuy có những nhóm nhỏ nhoi , được thành lập Hội Bách Việt Dân Tộc Sử Nghiên Cứu Hội , tác phẩm giá trị ấn hành ít ỏi nghèo nàn .Chúng tôi được thân bằng vì tình tri ngộ gửi tặng hai bộ : Bách Việt Dân Tộc Sử Luận Tập và Bách Việt Dân Tộc Sử , Mỗi bộ được Trung Quốc Xã Hội Khoa Học Xuất Bản Xã in 1.000 cuốn . Con số 1.000 cuốn sách phát hành trong một nước có trên 1 tỷ người , bằng 1/3 dân số trên thế giới , khác gì đem một thìa muối đổ xuống biển khơi ! Công trình nghiên cứu của Hội này chỉ như một cung tơ nức nghẹn giữa muôn ngàn tiếng trống . Chỉ duy Lạc Việt tức Việt Văn Lang vượt thắng những ba đào lịch sử , tồn tại làm một nước độc lập , giữ được nguyên vẹn dân tộc tính như Nguyễn Trãi đã viết trong Bình Ngô Đại Cáo ‘’ Như nước ta từ trước , vốn xưng văn hiến đã lâu . Sơn hà cương vực đã chia , phong tục Bắc nam cũng khác ‘’ ( Bắc chhỉ Trung Hoa , Nam chỉ Việt Nam )
BÁCH VIỆT CHUNG MỘT GỐC NGUỒN
Chữ Việt có hai cách viết bằng chữ Nho : một thuộc bộ tẩu và một thuộc bộ mễ.
Chữ Việt bộ tẩu biểu tượng cho ý nghĩa cao quý dấn thân , khai phá những nơi còn âm u tăm tối bằng ánh sáng văn hóa tình người , dựng nên xã hội định cư ấm cúng , với nền văn minh tồn trữ , káhc biệt với nền văn minh du mục của người phương Bắc.
Chữ Việt bộ mễ biểu tượng ý nghĩ định cư khai khẩn đất hoang , be bờ dân nước , làm thành một nền văn minh nông nghiệp , có tính cách tồn trữ , cao cả vượt trên cả các bộ tộc còn lang thang đây đó mưu việc sinh nhai .
Vì chữ Việt có hai cách viết khác nhau , đã có người lầm tưởng Việt bộ tẩu là Việt Nam ta , Việt bộ mễ là dân Việt ở Vùng Quảng Tây , Quảng Đông , Phúc Kiến , Triết Giang …
Theo Bách Việt Tiên Hiền Chí , một bộ Lĩnh nam Di Thư quý báu được sử quán Nhà Minh khắc in trọn bộ , góp vào Nghệ Văn Chí , làm sử liệu chính xác , các nhà viết sử nương tựa vào để trích dẫn hoặc dẫn chứng Việt bộ tẩu và Việt bộ mễ là một .
Theo Khang Hy tự điển , bộ tự điển nghiêm túc được văn học giới Trung Hoa tin tưởng , Việt bộ Tẩu và Việt bộ mễ là một . Theo Từ Hải , bộ bách khoa từ điển của Trung hoa , Việt bộ tẩu và Việt bộ mễ là một , vậy phân biệt hai cách việt của chữ Việt và gán cho mỗi cách viết mang một ý nghĩa khác nhau chỉ là tưởng tượng mơ hồ của người hay chữ lỏng , nếu không phải là chủ trương phân ly Bách Việt của kẻ có ý đồ đen tối .

Về thủy tổ bách việt truyền khẩu cũng như sử sách Việt Nam đều đồng nhất . cáhu ba đời của vua Thần Nông là Đế Minh đi tuần du pgương Nam đế Ngũ Lĩnh , gặp nàng vụ tiên ( nàng tiên đẹp , cần mẫn , nết na ) lấy nhau sinh ra Lộc Tục . Lộc tục có thánh đức , Đế Minh muốn truyền ngôi . Lộc tục cũng khiêm không dám nhận . Đế Minh bèn truyền ngôi cho con trưởng là Đế Lai làm vua Phương Bắc , phong Lộc tục làm vua Phương Nam . Lộc Tục xưng là Kinh Dương Vương ( vua châu Kinh và châu Dương ) đặt quốc hiệu là Xích Quỷ .

Nước Xích Qủy bắc giáp Động đình Hồ , Nam giáp nước Hồ Tôn , tây giáp Ba Thục , đông giáp bể Nam Hải . Vua lên ngôi năm Nhâm Tuất ( 2879 trước kỷ nguyên Tây Lịch ).

Kinh Dương Vương kết hôn với nàng Long Nữ , con gái vua xứ Động đình sinh ra Sùng Lãm .

Sùng Lãm nối ngôi xưng Lạc Long Quân , kết hôn cùng nàng Âu Cơ con gái vua Đế Lai , sinh được trăm trứng , nở thành trăm con trai . Một hôm Lạc Long Quân bảo bà Âu Cơ : ''Ta là dòng dõi rồng , nàng là dòng dõi tiên , ăn ở với nhau lâu không được . Nay được trăm con trai , nàng hãy dẫn 50 con lên núi , ta dẫn 50 con xuống miền Nam Hải . Dù ở đâu cũng không được bỏ nhau ''.

Con trưởng được dựng lên làm vua , đổi quốc hiệu là Văn Lang , xưng là Hùng Vương , truyền được 18 đời , đến năm Quý Mão ( 258 TCN ) thì mất về nhà Thục .

Một trăm con trai của Lạc Long quân và bà Âu Cơ là tổ của Bách Việt .

Đọan sử trên hàm chứa nhiều ẩn dụ mang sắc thái huyền thọai . Đó là điều thường gặp nơi cổ sử của các dân tộc Á cũng như Âu . Lý giải theo nghĩa của ngôn từ này sẽ đưa đến nhiều kết luận khác biệt . Trong phạm vi bài viết này , chúng tôi chỉ giải thích nghĩa hai quốc hiệu Xích QủyVăn Lang .

Xích Quỷ : Xích là màu đỏ , màu của lửa , cũng là màu được dùng để chỉ phương Nam biểu tượng cho lòng nhân ấm áp tình người . Thành ngữ xưa có câu : '' NAm phương hỏa đức thịnh '' , nghĩa đen là phương Nam thịnh về đức lửa . Nghãi bóng là nam phương giàu lòng nhân . Thần sao Nam tào được giữ gìn sổ sinh ( sổ ghi về sự sống , tuổi thọ của mọi người trên mặt đất ) là một vị văn quan mặt đỏ .

Đọan Trung Dung sau đây nói minh bạch về lòng nhân của phương Nam : Tử lộ vấn cường . Tử viết '' Nam phương chi cường dư? Bắc phương chi cường dư ? Ức nhi cường dư ? Khoan dung dĩ giáo , bất báo vô đạo , nam phương chi cường dã , quân tử cư chi . Nhậm kim cách , tử nhi bất yếm , Bắc phương chi cường dã , nhi cường dã cư chi '' Nghãi là : Thầy Tử Lộ hỏi về sức mạnh . Khổng Tử nói : '' Sức mạnh của phương Nam ư ? Đem lòng rộng lượng hiện hòa để giáo hóa người , dẫu đối với kẻ vô đạo cũng không báo thù báo óan , đó là sức mạnh của phương Nam . Nừoơi quân tử ở đấy , mặc giáp cầm gươm , xông pha đánh giết , đến chết cũng không ngán , đó là sức mạnh của phương Bắc , Người cường bạo ở đấy ''

Qủy : Thiên lễ vận nơi Lễ ký có ghi câu '' Trình bày dâng lên qủy thần '' , Lại chú giải : '' qủy al2 nơi linh hồn tinh anh trở về ''

Thiên Đoan Thiên nơi sách Liệt tử có viết : '' các tinh thần lìa hình thể đều trở về nơi chân thực nên gọi là quỷ , Nơi qủy trở về là nơi cư ngụ chân thật của mình ''.

Qủy còn là tên vị sao sắc trắng trong nhị thập bàt tú .

Như vậy , Xích Quỷ có nghĩa là '' Khi sống , lấy đức nhân mà hành xử việc đời . Khi chết trở về nơi chân thực , vĩnh cửu '' . Đồng thời cũng hàm chủ ý nghĩa về địa dư : Nườc ở phương Na , sao Qủy xác định địa giới .

Văn Lang : Chữ Văn có nhiề ý nghãi phức tạp và khác biệt , Chúng tôi chọn nghĩa chữ '' Văn '' nơi sách Sử Ký và sách Luận Ngữ .

Theo '' Sử ký thụy pháp '' ( chương viết về phép đặt tên thụy , tức tên mà người sống xét phẩm cách của người chết mà đặt cho ) có ghi : '' Kinh vĩ thiên địa viết văn . Đạo đức bác văn viết văn . từ huệ ái dân viết văn . Mẫn dân huệ lễ viết văn . Nghĩa là : '' Dọc ngang trời đất gọi là văn . Đạo đức , nghe rộng gọi là văn . Chăm học , ưa hỏi gọi là văn . Hiền từ , thương xót yêu dân gọi là văn . Ban thưởng tước vị cho d6an gọi là văn '' .

Sách Luận Ngữ , chương Tử Hân có ghi lời Khổng tử khi Ngài bị người Ấp Khuông , một ấp thuộc nước Vệ đời Xuân Thu vây khốn vì ngộ nhận Ngài là ác nhân Dương Hổ : '' Văn vương ký một , văn bất tại tư hồ ? Thiên chi tương táng tư văn giã , hậu tử giả , bất đắc dư ư tư văn giã . Thiên chi vị táng tư văn giã . Khuông nhân kỳ như dư hà ? '' Nghĩa là : '' Văn vương đã chết , '' văn '' không do ta gánh vác hay sao ? Nếu trời muốn chôn vùi '' tư văn '' thì kẻ chết sau Văn vương là ta không được tham dự vào ''tư văn'' . Nếu trời chưa muốn chôn vùi '' tư văn'' thì người ấp Khuông làm gì được ta ? '' Tư văn theo Nho học là Đạo Trời . Chu Hy , học giả đời Tống chú thích : '' Đạo chi hiển giả vị chi văn '' nghĩa là đạo trời sáng tỏ gọi là văn '' .

Lang : chữ ''Lang '' gồm chữ '' lương '' là lương thiện bên bộ '' ấp '' là vùng đất . Do vậy , lang là vùng đất của người lương thệin hay đất nước của người lương thiện .

Văn Lang , quốc hiệu thời các Vua Hùng , hàm chứa ý nghãi : Vua mở tấm lòng giữa vùng trời đất , là bậc đạo đức cao nghe nhiều biết rộng . Đối với mình thì cố gắng học hỏi , mở mang trí thức . đối với dân thì hiền từ , yêu thương và biết giữ lễ với dân , lại có lòng xót xa nỗi vất vả mà nừoơi dân gánh chịu nân sáng sôốt ban thưởng cho người có công . Do vây , đã tạo nên đất nước trong đó có người dân sống đời lương thiện .
Sử là bộ môn khoa học nhân văn , đòi hỏi phải trung thực khách quan , ghi chép sử kiện của từng giai đọan một cách đầy đủ . Óai ăm , khi viết sử nước nhà , không ai có thể gạt bỏ hòan tòan tình cảm yêu ghét . càng óai ăm hơn , sử kiện lịch sử lại không thể tái thiết để thể nghiệm kiểm chứng . Hậu thế đọc sử không nhiều thì ít , có những điều thắc mắc hòai nghi . Do vậy , sử luận cần phải có . Nhưng , những bộ óc luận bàn lịch sử cũng không thể tuyệt đối khách quan . Và , cái vòng '' lẩn quẩn '' không có điểm ngừng ấy hẳn nhiên làm nảy sinh những quan điểm , những kết luận dị biệt , đôi khi mâu thuẫn .
Nơi đây , chúng tôi đặt nặng về sử kiện hơn là sử luận , nhằm mục đích đóng góp cùng độc giả những tài liệu quý giá có liên quan hệ trọng đến gốc nguồn xa xưa của dân tộc Việt . Đặc biệt , những tài liệu này được lưu trữ tại Trung Hoa , một nước truyền kiếp tìm cách thôn tính , đồng hóa dân nước ta . Mong độc giả đối chiếu và suy gẫm .
Sọan giả Âu Đại Nhậm , người huyện Thuận Đức , nay thuộc địa phận tỉnh quảng đông , được sử quán nhà Minh xác nhận là chính xác , in tòan bộ bản thảo vào Nghệ văn chí , dùng làm tài liệu cho các nhà viết sử tra cứu , trích dẫn . Âu Đại Nhậm đã viết lời tựa như sau :
'' Việt (bộ mễ ) và Việt ( bộ tẩu ) là một vậy , từ Ngũ Lĩnh đến điển , đều là biên giới phương nam của nước Việt . Vua Vũ đi khắp thiên hạ , nhận định địa lý hình thể , địa lý nhân văn rồi trở về nước Việt , họp chư hầu , bàn định kế họach hưng quân an dân . thiếu Khang ( vua thứ VI nhà Hạ ) phong cho con thứ là Vô Dư giữ đất Cối Kê , lo việc phụng thờ tế tự . Vô Dư ở Cối kê giữ tục truyền thống : Xăm mình , cắt tóc ngắn , phát cỏ khẩn hoang , định cư lập ấp , sống theo văn hóa nông nghiệp .
Hơn hai mươi đời sau Vô Dư , đến con của Dõan Thường là Câu Tiễn diệt Ngô mà xưng vương , đóng đô ở Lang Gia , uy hùng xây dựng nước nông nghiệp vậy .

Cháu sáu đời của Câu tiễn là Vô Cương cất quân đánh Sở , bị vua Sở là Hùng thích đáng bại . Vô Cương bỏ miền Đông Gia , đi đến ở miền Đông Vũ . Nước Việt tan . Các con của Vô Cương định cư ở duyên hải Giang Nam , chia nhau kẻ làm quân trưởng , người làm vương , gọi là Bách Việt , tất cả đều thần phục Sở . Châu Dương từ ấy bị phân chia . Cối kê lấy các sao phương Nam là sao Thuần , sao Vĩ để định cương giới . Đất Cối kê thuộc vào Nam Hải .

Khi Tần diệt sở , Vương Tiễn cai trị Dương Việt , chia thành ba quận : Nam hải , Quế Lâm và Tượng Quận . cháu Úy Đà thần phục nhà Hán . Họ Triệu cai trị cả ba quận ấy , lại kiêm thêm các quận Hợp Phố , Thương Ngô , Uất Lâm , Giao Chỉ , Cửu Chân , Chu Nhai , tổng cộng là chính quận vậy . nay vùng Nam Việt , bắc giáp Cô Tư , kiêm cả Cối Kê là Phù Việt . Phía Đông , Vô Chư đóng đô ở Đông Giã , từ Đông Giã đến Chương Tuyền là Mân Việt . Vùng Đông Hải .Vương Dao đóng đô ở Vĩnh Gia là Âu Việt . Lãnh thổ xưa của Dịch Vu Tống , dọc theo sông Tương , sông Ly về phía Nam là Tây Việt . Từ Tang Ca xuôi xuống phái Tây , gồm cả các đất Ưng , Dung , Tuy, Kiến là Lạc Việt .

Người Hán bảo việt gần biển , có nhiều sừng tê , đồi mồi , ngọc trai , bạc đồng , trái cây , vải vóc . Ôi , Vùng đất có những thứ quý báu ấy , há chẳng phải do dương đức thịnh hay sao ? Dương đức thịnh đã chung đúc nẹn nhân văn , áo mũ , lễ nhạc , chẳng thua gì thanh giáo Đường , Ngu . Xem vậy , nào phải Nam giao buổi ban sơ là tà đâu ? Ta được biết Thái Sử công có viết :'' Việt tuy bị gọi là man di , nhưng tiên khởi đã có đại công đức với muôn dân vậy '' ( Vua Vũ nhà Hạ trị nạn Hồng thủy ) .

Nơi sách Xuân Thu có ghi chép việt Việt Câu Tiễn từ Việt tiến vào Ngô . Man di mà làm được việc ấy ư ? Thủa ấy Việt đã có nền văn hiến cao , cho nên người Việt biết bền gan sống cảnh thân khổ , sức mệt , ơới mưu sâu thần kế , rửa sạch cái nhục ngọai nhân trói buộc , kiểm sóat đến cả ăn nằm , hiệu lệnh đến cả Trung Quốc phải tuân theo răm rắp , vậy mà vẫn khiêm tốn thờ nhà Chu , giữ trọn điều trung điều hiếu .

Từ Tần , Hán trở về sau , Việt có họ Sô với Vô Chư , với Diêu , họ Triệu với Đà với Quang , đều là những bậc sự nghiệp lẫy lừng , kẻ tả hữu là những người Việt tài ba xuất chúng không ít . Kìa xem họ Lưu với Đông Tây hai kinh , bầy tôi công nghiệp lớn lao , văn chương l;ỗi lạc , kẻ bắc người nam nước Việt , bảy tám ngàn dặm xa xôi , đến từ Bắc hải , Giao Châu càng nhiều lắm vậy ...''

TỪ HẢI , BỘ BÁCH KHOA CỦA TRUNG HOA

Về Bách Việt có ghi :

'' cũng viết là , tên của chủng tộc . Theo sách Thông Khảo Dư Địa khảo , chương Cổ Nam Việt viết : Đương thời Đường Ngu , tam đại , từ Ngũ Lĩnh về phía Nam là nước của người man di , ấy là đất của Bách Việt '' Sách này lại ghi chú : '' Từ Giao Chỉ đến Cối Kê bảy tám ngàn dặm , chủng tộc Bách Việt sống lẫn với các sắc dân khác , nhưng luôn luôn giữ được cá tính của chủng tộc ''